Sinh ra từ một dòng họ vẻ vang bậc nhất, Nguyễn Hữu
Cảnh là con thứ ba của Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật. Kể rằng, ông có tính khí
ngang tàng, ưu mạo hiểm ngay từ khi còn nhỏ. Lớn lên đi học, văn cũng thông, võ
lại càng giỏi. Gia đình thấy ông sớm rành võ thuật nên thường xuyên khuyến
khích, cho tập tành xông pha trận mạc. Tuổi trẻ ông đã sớm lập được nhiều chiến
công, được phong chức Cai cơ. Ông còn thạo nghề nông, quan tâm phát triển nông
nghiệp, lo cho đời sống nhân dân, nghĩ kế sách “dẫn thủy nhập điền” (đào sông
dẫn nước tưới tiêu cho ruộng đất) làm lợi cho nông dân. Càng trưởng thành, ông
càng thể hiện cốt cách, tài năng của một dũng tướng tài ba, một nhà chính trị
kiêm ái.
Vào cuối thế kỷ 16, vùng Diên Khánh (Khánh Hòa ngày
nay) thường xuyên bị giặc ở phía Nam tràn qua biên giới hòng chiếm đất, tàn sát
cư dân. Nguyễn Hữu Cảnh được cử làm Thống binh đem quân bình định biên cương.
Ông đã giữ yên vùng biên giới, dẹp yên bọn tạo phản, đem lại sự bình yên cho
nhân dân. Ông còn thực thi chính sách ôn hòa, mềm dẻo, đoàn kết giữa các sắc
tộc, hướng dẫn cho dân phát triển sản xuất, chăm lo đời sống, giữa cho dân yên
ổn định làm ăn.
Xứ Đồng Nai - Đông Nam Bộ xa xưa là địa bàn của 2 tiểu
quốc, rừng rú hoang dã, đất rộng, người thưa. Sau bị nước Phù Nam bị xóa sổ bởi
vương quốc Chân Lạp. Còn miền đất trũng hoang phế thuộc hạ lưu sông Mê Kông
(Tây Nam Bộ) hai phía có biển cả bao bọc. Nhiều thế kỷ trước đó, cả vùng đất
Nam Bộ danh nghĩa gọi là Thủy Chân Lạp, thực chất chỉ là một vùng hoang dã, gần
như vô chủ. Các cư dân ở đây sống tự do, tự lo, chưa bị một nền hành chính nào
quản lý, chưa có bất cứ đơn vị hành chính (thôn làng, xã ấp …) của một quốc gia
nào.
Đầu thế kỷ XVII, cuộc hôn nhân giữa công chúa Ngọc Vạn
và vua Chân Lạp Chey Chettha II đã khiến mối giao hảo Việt - Miên khởi sắc.
Lúc này, vùng đất hoang dã Thủy Chân Lạp (Nam Bộ) được
coi như “vùng trái độn” giữa hai biên giới Việt Nam - Campuchia. Bất cứ dân tộc
nào có sức lực, gan dạ, muốn chiếm cứ khai phá lấy đất trồng trọt sinh sống đều
được tự do không bị cấm đoán, ngăn cản.
Sống ở vùng ác địa đầy lam son chướng khí này, lúc đó
có loáng choáng vài sắc tộc như Chơ-ro, S’Tiêng, Châu Mạ, Chăm, Khơ Me, …Người
Kinh (Đại Việt) lác đác đến đây nhiều đợt từ trước cả thời Trịnh - Nguyễn phân
tranh, sống ở vùng Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai, Bến Nghé … Nơi đây có nhiều vùng
trũng ngập cỏ, thuận tiện cho việc trồng lúa nước. Người Việt cần cù, siêng
năng, không ngại khó ngại khổ, rành nghề nông, lại giỏi môn chài lưới đã khai
phá rừng rậm, lập ấp, lập làng, quần tụ dần đông đúc.
Năm 1679, một số di thần nhà Minh không chịu hàng phục
nhà Thanh bên Trung Quốc đã dong thuyền, vượt biển chạy sang Việt Nam vào đất
Đàng Trong xin tị nạn. Chúa Nguyễn đã cho họ vài tị nạn ở Bàn Lân (Biên Hòa,
Đồng Nai) và Vũng Cù (Định Tường, Mỹ Tho).
Người Hoa có truyền thống về thương mại nên họ chỉ
khai phá đủ chỗ sinh sống rồi lập chợ, tụ họp buôn bán. Với địa thế thuận lợi,
trên bến dưới thuyền, thuận ngả giao thông, họ đã lập chợ ở mỏm Cù Lao Phố, lúc
đầu còn buôn bán lẻ tẻ, dần thành thương cảng sầm uất.
Nguyễn Hữu Cảnh góp công lớn trong cuộc “nam tiến”,
mở mang bờ cõi.
Mùa xuân năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu phái
Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh lúc này đang làm Trấn thủ Dinh Bình Khương (Bình
Thuận ngày nay) làm Thống suất kinh lược vùng đất phương Nam (Nam Bộ). Kinh
lược là chức quan thay mặt vua, chúa trong coi việc quân, dân ở một vùng.
Nguyễn Hữu Cảnh được giao thay mặt chúa toàn quyền xứ Nam Bộ.
Chân
dung LTH Nguyễn Hữu Cảnh
Tháng 2 năm đó đoàn thuyền chiến của Chưởng cơ Thống
suất Nguyễn Hữu Cảnh cập bến Cù lao Phố. Ông đặt đại bản doanh tại Cù lao Phố
và nhanh chóng vạch ra kế hoạch khai hoang mở cõi và sắp xếp vùng đất Nam Bộ,
bình định biên cương. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép:
Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn đã “lập
đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm
huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký
lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc. Quân binh thì có
tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân
hơn 4 vạn hộ. Chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp. Lập ra thông,
xã, phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh
điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy tập thành xã Thanh
Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi cho phép vào hộ tịch”.
Nguyễn Hữu Cảnh đã phân chia địa giới, đặt chức quan
và cử người trông coi, định mức tô thuế, lập số đinh điền, tổ chức quân binh,…
thiết lập bộ máy quản lý hành chính đầu tiên ở vùng đất Nam Bộ. Tất cả dân số
đều nhập vào sổ bộ nhà chúa Nguyễn. Toàn bộ dân cư vùng đất phương Nam (Nam Bộ)
đã trở thành thần dân của chúa Nguyễn.
Đất Đồng Nai khi đó thuộc huyện Phước Long. Huyện
Phước Long có địa giới khá rộng là phần lớn của miền Đông Nam Bộ, bao gồm các
tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, và một phần của tỉnh
Bình Thuận cùng một phần của Thành Phố Hồ Chí Minh ngày nay.
Nguyễn Hữu Cảnh đã ra sức đôn đốc dân khai phá ruộng
rẫy, phát triển sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh giao thương, buôn bán. Ông rèn
luyện quân lính, tổ chức canh phòng giữ yên ổn các thôn trang. Ông đặt ra chính
sách khuyến khích khẩn hoang và chiêu mộ dân từ miền Trung, miền Ngũ Quảng vào
khai phá xứ Đồng Nai, Gia định:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Câu ca có từ thuở khai hoang, lập ấp này.
Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh
tại Thác Ro, Lệ Thủy, Quảng Bình
Nguyễn Hữu Cảnh còn khuyến khích các thương nhân xây
dựng Cù lao Phố thành một thương cảng sầm uất nhất xứ Nam Bộ thời đó. Các sản
vật: cau Đàng Trong, gỗ Đồng Nai, đuông rừng Sác, cá khô Bến Nghé, … và nhiều
món hàng đặc sản khác của Nam Bộ, Đàng Trong được mua bán, trao đổi với khách
hàng trong và ngoài nước.
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh
(Còn gọi là Đình Bình Kính) thuộc địa phận xã Hiệp Hòa (Cù lao Phố).
Là di tích lịch sử đã được
Nhà nước xếp hạng ngày 25/3/1990.
Cả vùng đất phương Nam (Nam Bộ) bấy giờ với bộ máy
hành chính được thiết lập, nông thương phát triển, dân cư tụ hội, an ninh bảo
đảm, binh lực hùng cường là nhờ công lao của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh -
người có tài kinh bang tế thế, thực hiện xuất sắc ủy thác của Chúa Nguyễn
Người dân
viếng mộ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh ở xã Hiệp Hòa, TP.Biên Hòa
Ghi sâu công đức của Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu
Nguyễn Hữu Cảnh, khắp nơi trên vùng đất Đồng Nai - Nam Bộ, nhân dân đã lập đền
thờ ông ngay sau khi ông mất và nối đời hương khói, cúng tế. Tại rất nhiều nơi
trên đất Nam Bộ từ mấy trăm năm trước đã lưu tên ông: Cù lao Ông Chưởng, Sông
Ông Chưởng, đền Lễ Công, Đình Bình Kính.
HC - BTGHU sưu tầm