Chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và chiến tranh chống chế độ
Pol Pot của Việt Nam có 3 giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên “Cuộc kháng chiến bảo
vệ biên giới, biên cương Tổ quốc”; giai đoạn thứ hai “Là giải phóng cho nhân
dân Campuchia”; giai đoạn thứ ba “Pol Pot khôi phục lại lực lượng ở biên giới
giáp với Thái Lan”.
Trong ảnh: Lực lượng quân đội cách mạng
Campuchia tiến vào giải phóng Thủ đô Phnom Penh, trưa 7/1/1979. Ảnh: TTXVN
Ngay từ tháng 04/1975, sau khi lên nắm quyền lãnh đạo Campuchia,
Pol Pot thường xuyên xuyên tạc về Việt Nam, cho quân gây rối, xâm lấn lãnh thổ
nước ta trên vùng biển biên giới Tây Nam; đánh chiếm đảo Thổ Chu và một số đảo
khác, giết hại người dân hết sức dã man, gây ra hàng loạt cuộc thảm sát nhân
dân biên giới Việt-Cam.
Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Ủy viên Bộ
Chính trị, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng (Ảnh: Lê Minh Sơn)
Vào thời điểm này, Trung đoàn 1 U Minh, sau đó là Sư đoàn 4 của
Quân khu 9 trực tiếp chiến đấu chống sự xâm lược của tập đoàn phản động Pol Pot
- Ieng Sary, giành lại các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, Hòn Ông, Hòn Bà và bảo vệ
tuyến biên giới từ Tịnh Biên (An Giang) đến Hà Tiên (Kiên Giang).
Cuối năm 1976, quân Pol Pot vào lãnh thổ nước ta ngày càng tăng,
quy mô ngày càng lớn, tình hình biên giới Tây Nam hết sức căng thẳng; đến đêm
30/4/1977, bất ngờ đồng loạt tiến công xâm lược toàn tuyến biên giới phía Tây
Nam nước ta; nhân dân ta, đặc biệt là người dân khu vực biên giới rất hoang
mang.
Gần như ngay lập tức, quân chủ lực từ các Sư đoàn đã được huy
động, phối hợp tác chiến cùng với lực lượng vũ trang địa phương và các đồn Công
an vũ trang đánh trả địch quyết liệt, bảo vệ dân, bảo vệ từng tấc đất thiêng
liêng của Tổ quốc, từng bước hất chúng về phía bên kia biên giới.
Tính từ tháng 5/1975 đến 23/12/1978, Pol Pot đã giết hại hơn 5.000
dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi thủ tiêu hơn
20.000 người; chủ trương của quân Pol Pot là “Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục,
mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20
năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu
người Việt Nam”.
Ngày 31/12/1977 Việt Nam đưa 6 sư đoàn bộ binh đánh sâu vào đất
Campuchia giải thoát một số cán bộ quan trọng của Campuchia trong đó có Thủ
tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời “cảnh cáo” cho chính
quyền Khmer Đỏ.
Chúng ta đề nghị đàm phán thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên
giới, nhưng Pol Pot nhiều lần từ chối; hơn 30 vạn dân ta phải di tản vào sâu
trong nội địa.
Ngày 13/12/1978, với sự hậu thuẫn của Trung Quốc, chúng huy động
19 sư đoàn (khoảng 80.000 đến 100.000 quân) tiến công xâm lược toàn tuyến biên
giới.
Trước tình hình đó, Việt Nam cùng với hơn 1 vạn quân thuộc Mặt
trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (UFNSK) (là chính phủ kháng chiến được
thành lập bởi Hun Sen) đã đánh trả, tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống
5.800 lính khác. Kết thúc cuộc chiến, quân tình nguyện Việt Nam tiêu diệt hơn
10 vạn quân Pol Pot.
Đến 07/01/1979, Phnom Penh được giải phóng nhưng 10 năm sau, cuộc
chiến tranh mới kết thúc, hơn 3 triệu dân Campuchia chết dưới nạn diệt chủng
của Pol Pot.
Nhìn lại cuộc chiến tranh biên giới Tây
Nam, đây là một cuộc
chiến bắt buộc, chúng ta không chủ động; chúng ta luôn muốn giữ mối quan hệ hòa
bình với nhân dân Campuchia nhưng Pol Pot lại chủ động tấn công, xâm lấn lãnh
thổ, buộc chúng ta phải cầm súng. Tất cả đều quyết tâm bảo vệ tới cùng từng
thước đất của quê hương, là cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng theo điều 51 Hiến
chương Liên Hợp Quốc.
Đối với giai đoạn chúng ta tiến hành giải phóng nhân dân Campuchia
khỏi nạn diệt chủng Pol Pot; ngoài Liên Xô và các nước XHCN anh em ủng hộ Việt
Nam thì cả khối TBCN và Trung Quốc cùng các đồng minh của nước này ủng hộ chính
quyền Khmer Đỏ và cho rằng Việt Nam đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược
Campuchia.
Đến năm 2006 phiên tòa xét xử tội ác Khmer đỏ được thành lập, ngày
26/7/2011 phiên tòa xét xử phiên đầu tiên. Cuộc chiến 10 năm của Việt Nam có
kết quả, những kẻ cầm đầu Khmer đỏ bị xét xử “sự thật được phơi bày”; như vậy “thế giới đã nợ Việt Nam một lời xin lỗi”.
Ngay cả nhân dân Campuchia khi đó cũng rất ủng hộ quân tình nguyện
Việt Nam; gọi bộ đội Việt Nam là “bộ đội nhà Phật” vì chúng ta đã giải thoát
cho hàng vạn người dân Campuchia ra khỏi các trại tập trung; khi bộ đội ta rút
quân về nước, người dân đã khóc; muốn chúng tôi ở lại,… và cũng nhờ có dân mới
đẩy được lực lượng nằm vùng của Pol Pot, nếu không sẽ khó để thực hiện được.
PLN - BTGHU - Tổng hợp