Lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Ai là Anh hùng?” với bút danh C.B,
đăng trên báo Nhân dân, số 54, ngày 17/4/1952 khẳng định: “Anh hùng là những người thật cần,
kiệm, liêm, chính, hết lòng hết sức phục vụ kháng chiến, phụng sự tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Là những người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, của giai cấp”.
Năm 1952, là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đang liên tiếp giành được nhiều thắng lợi trên chiến trường, xuất hiện các tấm
gương anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, tiêu biểu trong sản xuất của quân và
dân ta. Nhiều người đã đặt câu hỏi: Ai là anh hùng?
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng trước tiên phải là người có đạo đức cần, kiệm,
liêm, chính
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng trước tiên phải là người
có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính. Đó là những phẩm chất cao đẹp của đạo đức
cách mạng: cần cù, siêng năng, tiết kiệm, trong sạch, không tham lam; lòng dạ
luôn ngay thẳng. Ngoài các yếu tố trên, anh hùng còn là người phải hết lòng, hết
sức phục vụ kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, là đầy tớ của nhân
dân. Họ là những người đặt lợi ích cách mạng cao hơn hết; có tinh thần trách
nhiệm và tính tích cực hơn hết; lòng son dạ sắt, suốt đời đấu tranh vì lợi ích
của cách mạng, của dân tộc, không bao giờ nghĩ đến lợi ích riêng cho mình.
Nhằm thẳng quân thù mà bắn
Đồng chí Nguyễn Viết Xuân sinh năm 1934, dân tộc Kinh,
quê xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc-một vùng quê có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Xuất
thân trong một gia đình nông dân nghèo, lên 7 tuổi, Nguyễn Viết Xuân đã phải
sống một cuộc đời đi ở kéo dài suốt 10 năm. Khi vừa tròn 18 tuổi, anh đã dũng
cảm vượt vùng tạm chiến ra vùng tự do, xin đi bộ đội. Nhập ngũ tháng 11 năm
1952, lúc đầu, anh làm chiến sỹ trinh sát, rồi tiểu đội trưởng trinh sát, trung
đội trưởng pháo cao xạ, sau làm chính trị viên đại đội. Bất kỳ ở cương vị nào,
Nguyễn Viết Xuân cũng luôn nêu cao quyết tâm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ
quốc, gương mẫu, xung phong đi đầu, cùng đồng đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ được giao.
Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, anh đã cùng
đồng đội dũng cảm chiến đấu, không ngại hy sinh, gian khổ, góp phần vào thắng
lợi chung của chiến dịch, giải phóng miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực
dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn
mới, giai đoạn xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa và tiến hành
cách mạng giải phóng miền Nam.
Năm 1964 bị thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam, Mỹ mở cuộc chiến tranh
phá hoại bằng không quân ra miền Bắc nước ta, Nguyễn Viết Xuân với vai trò là
một bí thư chi bộ, một chính trị viên đại đội pháo cao xạ, đã nêu tấm gương
sáng ngời về tinh thần kiên quyết tiến công địch. Tiêu biểu là trận đánh địch
ngày 18 tháng 11 năm 1964. Trong trận chiến đấu này, Mỹ đã huy động nhiều tốp
máy bay đánh phá ác liệt vùng ChaLo thuộc miền tây tỉnh Quảng Bình. Ngay đợt
đầu, 3 chiếc máy bay F.100 bất ngờ lao vào trận địa của đại đội Nguyễn Viết
Xuân. Loạt đạn đầu tiên của khẩu đội 3 đã đón đánh chiếc đi đầu trong tốp, bọn
địch đổi hướng tấn công và tập trung oanh tạc vào Khẩu đội 3. Cả trận địa nổ
súng giòn giã, đánh trả quyết liệt lũ cướp trời, một chiếc trong tốp bay của
địch trúng đạn bốc cháy, nhưng một chiếc khác đã phóng một loạt tên lửa về phía
khẩu đội 3. Bất chấp nguy hiểm, Nguyễn Viết Xuân lao ra khỏi công sự, đứng bên
khẩu đội 3 đĩnh đạc tỏ rõ khí phách và hô lớn: “Nhằm thẳng quân thù,
bắn!”
Giữa làn bom đạn địch, tiếng hô dõng dạc của anh vang trên trận địa đã trở
thành khẩu hiệu khích lệ mạnh mẽ tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn đơn
vị và trên khắp các chiến trường đánh Mỹ. Lưới lửa của đại đội vây chặt lũ máy
bay Mỹ và một chiếc nữa lại phải đền tội. Trận chiến đấu vừa tạm dứt, anh đi
khắp các khẩu đội để nắm tình hình động viên quyết tâm tiếp tục chiến đấu. Máy
bay địch lại ập đến, điên cuồng bắn phá trận địa của đại đội. Một lần nữa cuộc
chiến đấu lại diễn ra khốc liệt tiếng máy bay của địch gầm rú trên bầu trời
liên tiếp nhả các loạt bom xuống trận địa, anh bị thương nặng, gãy nát đùi bên
phải. Nhưng Nguyễn Viết Xuân vẫn thản nhiên bảo y tá cắt nốt phần thịt dính vào
chân, bỏ chân đi cho đỡ vướng. Đồng chí nói: “Tôi không việc gì” và căn dặn y tá
không được cho mọi người biết. Và vẫn tỉnh táo theo dõi cuộc chiến đấu, biểu
dương kịp thời những chiến sĩ và khẩu đội lập công. Sau trận chiến đấu ác liệt,
anh chỉ định người thay thế, phân công người chăm sóc các đồng đội bị thương,
bình tĩnh bàn giao cộng việc rất tỉ mỉ, rõ ràng. Trở về tuyến sau, vết thương
quá nặng, máu ra nhiều, nguyễn Viết Xuân thấy mình khó qua được, anh đã bình
tĩnh trao đổi nhiệm vụ với người thay thế, dặn dò cặn kẽ việc chấp hành Nghị
quyết của Chi bộ và nêu một số đề nghị về công tác phát triển Đảng, Đoàn và
khen thưởng trong đơn vị. Khi hy sinh, anh là thiếu uý, chính trị viên đại đội
3, tiểu đoàn 14 pháo cao xạ, sư đoàn 325, Quân khu 4, đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Tấm gương chiến đấu anh dũng quên mình vì nhiệm vụ của
đồng chí được cán bộ chiến sĩ trong đơn vị rất cảm phục, cả đại đội 3 đã dấy
lên một cao trào thi đua, kiên quyết chiến đấu lập công, trả thù cho người
chính trị viên yêu quý của mình.
Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Nguyễn Viết Xuân đã được nhà nước truy tặng danh hiệu
anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
* Dũng sĩ diệt Mỹ...
Đó là Đại tá Trịnh Tố Tâm được mệnh danh là "dũng
sĩ diệt Mỹ", sinh tại xã Đồng Tân, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Từ năm 1967 đến năm 1970, anh đã tham gia và chỉ huy đơn
vị chiến đấu 58 trận, tiêu diệt 1.500 địch, trong đó có 700 lính Mỹ, phá hủy 61
xe quân sự, đánh bật 19 đoàn tàu hỏa, đánh sập 28 cầu, cống. Trong những trận
chiến đấu đó, riêng cá nhân anh đã diệt được 272 địch trong đó có 185 lính Mỹ,
bắn rơi và phá hủy 3 máy bay trực thăng. Với những chiến công đó 53 lần anh
được trao tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, 5 lần được tặng Huân chương Chiến
công giải phóng, đặc biệt ngày 20 tháng 9 năm 1971 anh đã vinh dự được Đảng,
Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Đại tá Trịnh Tố
Tâm được mệnh danh là "Dũng sĩ diệt Mỹ"
*Anh hùng trong thời bình...
Đó là Thiếu tá Quân nhân chuyên nghiệp Lê Văn Sáu (49
tuổi, xã Đồng Phú, Chương Mỹ, Hà Nội), Anh là thợ sửa chữa cơ tăng tại Kho K5,
Cục Kỹ thuật, Quân khu 2 đã mất ngày 8/4/2019,
trước khi anh về với đất mẹ đã tự nguyện hiến tặng giác mạc của mình với suy
nghĩ "Những cái gì mình cho đi thì còn mãi mãi, phát huy phẩm chất anh bộ
đội Cụ Hồ, tinh thần tương thân tương ái, giúp cho những người kém may mắn trở
về cuộc sống bình thường".
Khi còn sống, Thiếu tá Lê Văn Sáu luôn được anh em,
đồng đội đánh giá là người hoà nhã, gần gũi, đoàn kết, luôn tin tưởng. "Thực
sự đó là một quân nhân mẫu mực. Nhưng điều khiến đồng đội chúng tôi còn nhớ
mãi, và trở thành bài học cho bản thân mình, đến hơi thở cuối cùng, anh Sáu
cũng cố gắng làm việc tốt, cống hiến cho cuộc đời".
NH-VH&TT (
nguồn
Tổng hợp )