Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân
dân của ta đã phải đương đầu với một đội quân xâm lược lớn mạnh, có quân số
đông, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại.
Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
phải giải quyết một bài toán lịch sử mới: Làm thế nào để nhân dân và lực lượng
vũ trang nhân dân có thể chiến thắng được một đội quân xâm lược nhà nghề, ở một
chiến trường rừng núi hết sức phức tạp về địa hình, khí hậu, thời tiết, trong
điều kiện đất nước còn muôn vàn khó khăn, thử thách, lực lượng vũ trang nhân
dân, nhất là quân đội nhân dân còn non trẻ, vũ khí trang bị còn ít và thô sơ?
Vận dụng và phát triển sáng tạo nghệ thuật quân sự vô
sản, nhất là nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân, nghệ thuật phát huy vai
trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong chiến tranh chính nghĩa của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; kế thừa truyền thống, kinh
nghiệm “trăm họ là binh”, “cả nước một lòng”, “toàn dân đánh giặc”, “chúng chí
thành thành”, “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận”, “hòa nước sông chén rượu
ngọt ngào”, “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy yếu chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều”…
chúng ta đã quy tụ, khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh chính trị - tinh thần
của lực lượng vũ trang nhân dân và của nhân dân các dân tộc Việt Nam để làm nên
chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
“Thế trận lòng dân” trong chiến thắng Điện Biên Phủ là
sự gắn kết và quy tụ sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với nhân dân các
dân tộc Việt Nam. Trong những ngày đêm gian khổ, khó khăn, chiến đấu, hy sinh ở
mặt trận Điện Biên Phủ, Bộ đội, Công an và Dân công đã kề vai, sát cánh chiến
đấu và phục vụ chiến đấu.Lực lượng vũ trang nhân dân và nhân dân các dân tộc
Việt Nam, nhất là lực lượng vũ trang nhân dân trực tiếp tham gia chiến dịch
Điện Biên Phủ và nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã gắn bó keo sơn, đồng cam, cộng
khổ, cùng nhau chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, với những ngày đêm
“khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”.
“Thế trận lòng dân” trong chiến thắng Điện Biên Phủ là
sự gắn kết và quy tụ sức mạnh của hậu phương và của tiền tuyến. Trong điều kiện
khó khăn, thiếu thốn của một đất nước vừa giành được độc lập, nhưng hậu phương
của chiến tranh, nhất là hậu phương ở chiến trường Tây Bắc đã được củng cố, xây
dựng, nhất là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng chính quyền dân chủ
nhân dân để tập trung sức chi viện cho tiền tuyến. Do thực hiện tốt chính sách
cải cách ruộng đất nên nông dân rất phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, hăng hái đóng
thuế nông nghiệp, xung phong tòng quân và đi dân công phục vụ chiến dịch. Những
kết quả đạt được trong cải cách ruộng đất đã động viên, khích lệ, làm nức lòng
các chiến sĩ đang chiến đấu ở ngoài mặt trận.
Những chiến thắng vang dội của các chiến sĩ ở ngoài
mặt trận, nhất là những chiến công vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, dũng cảm,
hy sinh vì thắng lợi của chiến dịch đã có sức lay động, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần
của không chỉ các chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở mặt
trận, mà còn có ý nghĩa động viên tinh thần của nhân dân ở hậu phương làm tăng
thêm tinh thần đoàn kết, gắn bó, động viên, khích lệ lẫn nhau giữa tiền tuyến
với hậu phương, hậu phương với tiền tuyến, tạo nên “thế trận lòng dân” ngày
càng gắn bó vững chắc.
“Thế trận lòng dân” trong chiến thắng Điện Biên Phủ là
biểu hiện của việc khơi dậy và phát huy sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân
dân và nhân dân các dân tộc Việt Nam trong việc khơi dậy và phát huy tinh thần
yêu nước, sẵn sàng đứng lên chấp nhận mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, quyết không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.
Với việc khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước của
lực lượng vũ trang nhân dân và nhân dân các dân tộc Việt Nam trong chiến dịch
Điện Biên Phủ tạo nên một “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là đã tạo ra được
một phong trào thi đua giết giặc lập công sôi nổi, rộng khắp từ cán bộ đến
chiến sĩ, từ những người trực tiếp chiến đấu đến những người phục vụ chiến đấu
trong suốt 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, “máu trộn bùn
non”, nhưng “gan không núng, chí không mòn”.
Việc khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước của lực
lượng vũ trang nhân dân và nhân dân các dân tộc Việt Nam không chỉ là việc khơi
dậy và phát huy sức mạnh chính trị tinh thần của những người trực tiếp chiến
đấu và những người phục vụ chiến đấu ngay tại mặt trận, mà đó còn là việc khơi
dậy và phát huy tinh thần yêu nước của toàn thể nhân dân các dân tộc Việt Nam
hướng ra tiền tuyến với tinh thần: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Thực hiện lời động viên, kêu gọi của Trung ương Đảng,
của Chính phủ, của Hồ Chủ tịch, hàng vạn con em các dân tộc Việt Nam trên khắp
các vùng, miền của đất nước đã hăng hái xung phong, nô nức lên đường tham gia
chiến đấu và phục vụ chiến đấu.Chúng ta đã khơi dậy và phát huy được cao độ
tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, quy tụ được sự đồng
tình, ủng hộ, giúp đỡ, đóng góp của nhân dân cả tinh thần và vật chất, cả lực
lượng và của cải cho chiến dịch lịch sử Điên Biên Phủ, để rồi làm nên chiến
thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” như nhà thơ Tố Hữu đã viết.
NH-VH&TT