Đường Hồ Chí Minh là tuyến vận tải quân sự chiến
lược, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho các chiến
trường
Nhờ
có hệ thống đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn ngày càng hoàn chỉnh, sức người,
sức của đưa vào chiến trường miền Nam ngày càng tăng. Nếu tính trong 6 tháng
cuối năm 1959 (khi đường Hồ Chí Minh mới hình thành), với phương thức gùi bộ là
chủ yếu, Đoàn 559 mới vận chuyển được 32 tấn vũ khí giao cho Khu 5 thì trong
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lượng hàng đưa đến các chiến
trường là hơn 27.900 tấn, cùng hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, đơn vị kỹ thuật cung
cấp cho các mặt trận. Khi ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, lượng hàng
vận chuyển tới các chiến trường lên tới 66.500 tấn. Đặc biệt, trong hai năm
chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, lượng hàng đã giao
cho các chiến trường hơn 403.300 tấn. Như vậy, tính chung trong toàn bộ cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ đội Trường Sơn, qua tuyến đường Hồ Chí Minh
đã vận chuyển chi viện cho các chiến trường trên 1,5 triệu tấn hàng hóa và 5,5
triệu tấn xăng dầu,...
Cùng
với vận chuyển hàng quân sự, trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, tuyến
giao thông vận tải Trường Sơn đã bảo đảm cho hơn 1,1 triệu lượt cán bộ, chiến sĩ đi vào chiến
trường miền Nam và các hướng mặt trận lớn, đưa hơn 650.000 lượt cán bộ, chiến sĩ từ các chiến trường về hậu phương miền Bắc, trong
đó có gần 310.000 thương binh, bệnh binh. Không chỉ là tuyến vận chuyển sức
người và hàng hóa từ hậu phương ra tiền tuyến, Trường Sơn còn có một vị trí
chiến lược quan trọng như là “xương sống” ở bán đảo Đông Dương, là nơi “đứng
chân” của các binh đoàn chủ lực và các đơn vị binh chủng, kỹ thuật; là vùng hậu
phương trực tiếp của các chiến trường, là bàn đạp xuất kích đã được chuẩn bị
sẵn cho các binh đoàn chủ lực tiến công ra các hướng chiến dịch, chiến lược quan trọng.
Trong
suốt 16 năm, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh và Bộ đội Trường Sơn đã phát
huy vai trò to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện từ hậu phương lớn cho
các chiến trường miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, góp phần to lớn làm nên
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, cuộc Tiến công chiến
lược năm 1972, Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào. Đặc biệt, từ năm 1973 đến 1975,
Bộ đội Trường Sơn đã nỗ lực vượt bậc, ra sức xây dựng, tu sửa, nâng cao chất
lượng cầu đường đáp ứng yêu cầu của thời cơ chiến lược mới trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Chấp hành nghiêm mệnh lệnh của Bộ Tổng Tư lệnh,
quán triệt phương châm “Thần tốc, táo bạo, bất
ngờ, chắc thắng”, Bộ đội Trường Sơn đã nhanh chóng tổ chức vận
chuyển từng binh đoàn chủ lực lớn của quân đội ta, đưa một khối lượng cơ sở vật
chất kỹ thuật lớn tới chiến trường miền Nam; luôn bám sát các mũi tiến công của
bộ binh, vừa tháo gỡ bom mìn, vừa nhanh chóng sửa chữa, bắc lại cầu mới cho đại
quân ta tiến vào giải phóng các thành phố, thị xã và giải phóng Sài Gòn trong
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, làm nên Đại thắng 30/4/1975.
Chiến trường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là một
chiến trường ác liệt, chiến trường tổng hợp; Bộ đội Trường Sơn đã anh dũng
chiến đấu và chiến thắng vẻ vang, làm suy yếu kẻ thù
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến trường Trường Sơn - đường Hồ Chí
Minh thực sự là một chiến trường ác liệt, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và
địch. Những chiến sĩ trên Trường Sơn là những chiến sĩ trên mặt trận chiến đấu
mặt giáp mặt với quân thù, bảo đảm cho tuyến đường thông suốt. Kẻ thù đã dùng
mọi thủ đoạn đánh phá với những loại vũ khí và phương tiện chiến tranh vô cùng
hiện đại nhằm cắt đứt tuyến chi viện chiến lược. Trong cuộc “chiến tranh ngăn
chặn” này, không quân Mỹ - ngụy đã đánh phá 151.800 trận với 733.000 lần chiếc
máy bay, ném xuống tuyến đường gần 4 triệu tấn bom đạn.
Ngoài
việc dùng bom đạn thông thường đánh phá hòng ngăn chặn phương tiện vận tải, phá
hủy cầu đường, đường ống xăng dầu, hệ thống thông tin liên lạc... Đế quốc Mỹ
còn sử dụng các loại bom từ trường, bom la-de, “cây nhiệt đới” để phát hiện
tiếng động của người và phương tiện trên mặt đất; thả chất độc hóa học hủy diệt
cây xanh, gây bệnh tật và để lại di chứng cực kỳ nguy hiểm cho con người. Hơn thế
nữa, đế quốc Mỹ và quân ngụy còn huy động lực lượng lớn tiến hành hàng ngàn
cuộc hành quân đánh phá, chia cắt đường Trường Sơn trong suốt những năm chiến
tranh. Sự đánh phá ác liệt của Mỹ - ngụy trên Trường Sơn đến mức “rừng không
còn lá, núi đá thành đất bùn”.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vận
chuyển chi viện cho các chiến trường, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã trực tiếp tổ
chức đảm bảo giao thông vận tải, đánh địch tại chỗ, đồng thời phối hợp chặt chẽ
với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương trên các chiến trường thực hiện nhiều
chiến dịch lớn, đập tan cuộc “chiến tranh ngăn chặn” của đế quốc Mỹ.
Bộ đội Trường Sơn từ một đơn vị nhỏ
bé ban đầu đã trưởng thành nhanh chóng, bao gồm đủ các lực lượng: công binh,
vận tải (ô tô, đường sông, đường ống), phòng không - không quân, bộ binh, giao
liên, thông tin, hóa học, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến… thực sự
trở thành một chiến trường tổng hợp, tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng trên
quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi viện cho các chiến trường. Với tinh
thần “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, “Máu có thể đổ, đường không
thể tắc”, bộ đội và dân công hỏa tuyến Trường Sơn đã bảo đảm giao thông thông
suốt trong mọi tình huống.
Trong
16 năm, các lực lượng trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn đã chiến đấu
trên 2.500 trận, diệt gần 17.000 tên địch, bắt 1.200 tên, gọi hàng trên 10.000
tên, bắn rơi 2.455 máy bay địch, phá hủy hàng vạn tấn vũ khí và phương tiện
chiến tranh khác của địch. Để giành thắng lợi vẻ vang đó, hơn 2 vạn cán bộ,
chiến sĩ, thanh niên xung phong đã hy sinh, gần 3 vạn người bị thương, hàng
nghìn người bị ảnh hưởng nặng nề chất độc màu da cam của địch. Biết bao bộ đội,
thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, đồng bào các dân tộc đã hiến dâng cả
tuổi thanh xuân của mình để giữ vững mạch máu giao thông trên con đường huyền
thoại này.
Cuộc
chiến đấu chống “chiến tranh ngăn chặn” của bộ đội Trường Sơn là ác liệt nhất,
dài ngày nhất, quy mô nhất, hiệu quả cao nhất. Mặc cho mưa bom bão đạn và sự
đánh phá hủy diệt của kẻ thù, đường Hồ Chí Minh vẫn không ngừng “vươn sâu, vươn
xa”, đáp ứng yêu cầu ngày càng nóng bỏng của tiền tuyến lớn miền Nam, chiến
trường Lào và Campuchia. Đó là sức mạnh tổng hợp vô cùng to lớn của chiến tranh
nhân dân Việt Nam, đặc biệt là sự chiến đấu kiên cường của các đơn vị, các
quân, binh chủng đứng chân trên tuyến lửa Trường Sơn và sự đóng góp của nhân
dân các địa phương bảo vệ tuyến đường, đánh bại chiến tranh ngăn chặn của đế
quốc Mỹ và tay sai.
Đường Hồ Chí Minh là biểu tượng
sáng ngời của tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt chống kẻ thù chung của ba nước
Việt Nam - Lào - Campuchia và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế
Đường
Hồ Chí Minh ra đời và phát triển, trước hết bắt nguồn từ nhu cầu của cách mạng
Việt Nam. Trong quá trình đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ra toàn Đông
Dương, đường Trường Sơn đã không ngừng được củng cố, mở rộng nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển cách mạng của ba nước Đông Dương. Quân và dân ba nước đã nêu cao
tinh thần đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung, xây dựng và bảo vệ tuyến đường
chi viện chiến lược.
Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi hoàn toàn, tuyến chi viện chiến
lược Bắc - Nam (cả Đông và Tây Trường Sơn), đã đi qua 20 tỉnh thuộc ba nước
Đông Dương, tỏa ra các chiến trường; là sợi dây liên kết các chiến trường, là
“khúc ruột” nối với các tuyến vận tải của hậu phương lớn miền Bắc và các tuyến
vận tải của các chiến trường ba nước Đông Dương, tạo nên một hệ thống liên hoàn
bền vững. Nhân dân các dân tộc Việt Nam, Lào và Campuchia trên tuyến đường hành
lang đi qua đã tự nguyện dời bản, chuyển nhà, góp phần xây dựng, bảo vệ con
đường trong suốt những năm chiến tranh. Nhờ đó, tình đoàn kết quân dân ba nước
thêm gắn bó.
Không
chỉ là tuyến hậu cần chiến lược, là hậu phương trực tiếp, căn cứ của chiến
trường miền Nam Việt Nam, tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn còn đảm bảo chi
viện đắc lực cho chiến trường Lào và Campuchia, tiêu biểu là:
-
Từ năm 1959 đến năm 1964, tuyến vận tải chiến lược đã bảo đảm vận chuyển hàng
và tổ chức hành quân cho các đơn vị vào chiến trường miền Nam và Lào được
10.136 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ cùng hàng nghìn
tấn hàng quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ cho cách mạng Việt Nam,
Lào...
-
Năm 1970, tuyến vận tải chiến lược đã vận chuyển trên 5.000 tấn vũ khí, đạn
dược phục vụ kịp thời cho lực lượng cách mạng Campuchia phối hợp với Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam đập tan cuộc hành quân Chen-la 1 của Mỹ - Thiệu - Lon
Non.
-
Trong hai năm 1973 - 1974, tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn đã vận chuyển
chi viện chiến trường miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia một khối lượng vật chất
gấp 3,8 lần giai đoạn 1969 - 1972, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền
Nam, Lào và Campuchia tiến lên giành thắng lợi quyết định vào giai đoạn cuối
của cuộc kháng chiến.
Như
vậy, đường Hồ Chí Minh không chỉ là biểu hiện ý chí sắt đá, quyết tâm giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, mà
còn là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt cùng chống kẻ
thù chung của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia và bạn bè quốc tế.
Đường Hồ Chí Minh và hoạt động tác chiến, mở đường
của Bộ đội Trường Sơn đã góp phần quan trọng cho sự phát triển nền khoa học
nghệ thuật quân sự Việt Nam độc đáo, sáng tạo
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều sáng tạo; trong đó việc mở đường Hồ Chí
Minh là một sáng tạo chiến lược độc đáo của Đảng ta. Lần đầu tiên trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc, một tuyến đường vận tải chiến lược được xây
dựng hoàn chỉnh để chi viện cho chiến trường với sự đa dạng về thành phần lực
lượng và hoạt động tác chiến. Cùng với sự phát triển liên tục của công tác vận
tải chi viện cho chiến trường, nghệ thuật quân sự trên chiến trường Trường Sơn
luôn có sự sáng tạo và phát triển.
Đó
là nghệ thuật tổ chức lực lượng, tổ chức thế trận, tổ chức hệ thống lãnh đạo,
chỉ huy, điều hành, tổ chức mạng đường và hệ thống binh trạm, cung trạm, kho
tàng, bến bãi; nghệ thuật đánh địch, mở đường, bảo đảm hành quân, bảo đảm giao
thông, bảo đảm vận chuyển... Đó là
sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối chính trị, quân sự và khoa học, nghệ
thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam để giải quyết thành công một loạt
vấn đề rất mới thuộc về vận tải chiến lược trong chiến tranh của Quân đội ta
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Trường Sơn
- đường Hồ Chí Minh. Đồng thời, đó là nghệ thuật tiến hành công tác đảng, công
tác chính trị để xây dựng ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng,
phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua mọi gian khổ hy sinh để
làm nên những kỳ tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần cùng
toàn dân, toàn quân giành thắng lợi vĩ đại, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước.
HC – BTG - theo BTGTW