Đồng chí Hoàng Đình Giong người dân tộc
Tày, sinh ngày 1-6-1904, tại làng Thâm Hoáng, xã Hạ Hoàng (nay là phường Đề
Thám, thị xã Cao Bằng). Đồng chí là một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng
được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giác ngộ cách mạng và bồi dưỡng. Đồng chí còn có
các bí danh như: Hoàng, Trần Tín, Lầu Voòng, Nam Bình, Văn Tư, Võ Văn Đức, Vũ
Đức, Lê Minh, cụ Vũ…
Sinh ra trong một gia đình nông
dân nghèo, lớn lên trong bối cảnh đất nước chịu cảnh nô lệ lầm than, từ thuở
nhỏ, Hoàng Đình Giong đã sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, ghét thực dân đế quốc.
Được gia đình cho ăn học, đồng chí sớm tiếp nhận tư tưởng yêu nước tiến bộ,
tích cực tham gia tuyên truyền cách mạng trong học sinh các trường tiểu học ở
một số địa phương của tỉnh Cao Bằng.
Những năm 1925-1926, đồng chí về
Hà Nội học Trường Bách nghệ và gia nhập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Đồng chí tích cực tham gia phong trào
bãi khóa của học sinh Hà Nội, tham gia tổ chức lễ truy điệu nhà yêu nước Phan
Chu Trinh. Vì lý do này mà Hoàng Đình Giong bị đuổi học, trở về Cao Bằng. Với
nhiệt huyết và sớm được giác ngộ, đồng chí đã tích cực tham gia tuyên truyền
cách mạng tại quê hương.
Năm 1927, Hoàng Đình Giong ra
nước ngoài để bắt liên lạc với tổ chức Hội. Tháng 12-1929, đồng chí cùng Hoàng
Văn Thụ và Hoàng Văn Nọn được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng và thành lập
chi bộ ở Long Châu (Trung Quốc). Ngày l-4-1930, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên
của tỉnh Cao Bằng được thành lập. Đồng chí Hoàng Đình Giong đã xây dựng Cao
Bằng thành cầu nối giữa Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng với phong trào cách
mạng trong nước. Với thành tích xuất sắc trên, đồng chí Hoàng Đình Giong được
dẫn đầu đoàn đại biểu Xứ ủy Bắc kỳ tham dự Đại hội lần thứ Nhất Đảng Cộng sản
Đông Dương tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc) tháng 3-1935 và được bầu vào Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, trở thành ủy viên Trung ương Đảng khi mới 31 tuổi.
Năm 1936, đồng chí trở về nước,
tổ chức chỉ đạo phong trào công nhân tại Hải Phòng, Quảng Ninh và bị thực dân
Pháp bắt đầy đi biệt xứ tại đảo Ma-đa-gát-xca (châu Phi). Năm 1944, đồng chí
lợi dụng danh nghĩa đồng minh chống phát-xít, được không quân Anh chở về và cho
nhảy dù xuống Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, huyện Hòa An (Cao Bằng). Được trở về Tổ
quốc, đồng chí Hoàng Đình Giong tích cực hoạt động cách mạng. Sau ngày
9-3-1945, đồng chí cùng Đảng bộ Cao Bằng lãnh đạo nhân dân xóa bỏ chính quyền
tay sai của địch, thành lập chính quyền cách mạng ở hầu hết các châu trong
tỉnh, bao vây quân đội Nhật, trấn áp bọn phỉ phản động. Thực hiện Quân lệnh số
1 của Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, tỉnh ủy Cao Bằng cử đồng chí Hoàng Đình
Giong làm Trưởng ban khởi nghĩa, lãnh đạo lực lượng vũ trang cùng với quần
chúng nổi dậy, từ ngày 20 đến ngày 22-8-1945, giành chính quyền cách mạng trước
khi quân Đồng minh kéo vào nước ta.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa
thành công, đến tháng 10-1945, đồng chí Hoàng Đình Giong được Chủ tịch Hồ Chí
Minh giao nhiệm vụ làm Chỉ huy trưởng Bộ đội Nam tiến vào miền Nam chống thực
dân Pháp xâm lược. Đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương
Đảng đổi tên Hoàng Đình Giong thành Võ Văn Đức - để bảo đảm giữ gìn bí mật vì
tên tuổi Hoàng Đình Giong hay Văn Tư, thì kẻ địch đều đã biết.
Nhằm thống nhất các lực lượng vũ
trang trong những ngày đầu chống Pháp, ngày 23-11-1945, Hội nghị Quân sự Nam Bộ
cử đồng chí Nguyễn Bình làm Tư lệnh, đồng chí Võ Văn Đức tức Hoàng Đình Giong
(đổi tên thành Vũ Đức) làm Chính ủy Quân giải phóng Nam Bộ. Tháng 12-1945, Xứ
ủy Nam Bộ quyết định chia Nam Bộ thành 3 chiến khu, đồng chí Vũ Đức được phân
công làm Khu bộ trưởng Khu 9. Khu bộ trưởng Vũ Đức đã cùng một đơn vị tiếp tục
“Nam tiến” tới tận Cà Mau, miền đất tận cùng của Tổ quốc.
Lúc này, tình hình Nam Bộ gặp
rất nhiều khó khăn. Quân Pháp trở lại chiếm đóng nhiều nơi ở miền Trung và Tây
Nam Bộ, trừ Cà Mau. Đồng chí Vũ Đức chủ trương tạm thời rút các đơn vị chủ lực
còn lại ở các nơi tập trung về Cà Mau để củng cố tổ chức. Dưới sự lãnh đạo sâu
sát của Khu bộ trưởng Vũ Đức cùng các đồng chí: Phan Trọng Tuệ, Lê Hiến Mai,
chỉ trong một thời gian ngắn, chiến tranh nhân dân ở miền Tây Nam Bộ phát triển
mạnh mẽ, gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề. Ở Sóc Trăng, ta thành lập được
đại đội chủ lực, lấy tên là Đại đội Hồ Chí Minh. Đồng chí Vũ Đức đã đến dự và
công nhận đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng.
Đầu năm 1946, quân địch dùng
nhiều thủ đoạn tuyên truyền chia rẽ gây hận thù dân tộc, tôn giáo, kích động
người Khơ-me chống lại người Việt, kích động tín đồ Cao Đài, Hoà Hảo chống lại
cách mạng. Lòng tin của họ đối với chính quyền cách mạng bị giảm sút, mâu thuẫn
giữa người Việt với người Khơ-me ngày càng tăng, làm ảnh hưởng không tốt đến
tinh thần đoàn kết dân tộc lúc bấy giờ. Trước tình hình phức tạp đó, đồng chí
Hoàng Đình Giong đích thân đi kiểm tra thực tế tại một số địa phương ở Sóc
Trăng, Trà Vinh và đến Phước Long - nơi được coi là điểm nóng. Đồng chí đã phân
tích, giải thích cho cán bộ cơ sở, tổ chức tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong
hàng ngũ cán bộ, đảng viên, trong đồng bào người Việt và người Khơ-me về âm mưu
thâm độc của kẻ thù. Ngay sau đó, nhiều cuộc hoà giải được tổ chức, công tác
giáo dục về đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng được tiến hành sâu
rộng trong cộng đồng người Khơ-me và người Việt.
Bằng lý luận và thực tiễn chiến
đấu, đồng chí Hoàng Đình Giong đã xây dựng khối đại đoàn kết vững chắc giữa bộ
đội các địa phương khác nhau tại chiến trường Khu 9 và sau này là Khu 6. Trên
cương vị của mình, đồng chí Hoàng Đình Giong đã xây dựng thế trận chiến tranh
nhân dân rộng khắp, bám đất, bám dân, xây dựng căn cứ địa ở miền Tây Nam Bộ, đó
là căn cứ địa U Minh vững chắc cho cả cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ sau
này, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo để chiến đấu chống kẻ thù.
Cuối tháng 11-1946, Trung ương điều đồng chí Vũ Đức ra Bắc họp. Khi đồng chí di
chuyển đến Khu 6 thì nhận được quyết định của Trung ương phân công ở lại làm
Khu bộ trưởng Khu 6, trực tiếp chỉ huy các đơn vị chủ lực ở Ninh Thuận và Bình
Thuận.
Một buổi sáng tháng 3-1947, đồng
chí Vũ Đức đang biên soạn tài liệu huấn luyện dân quân, du kích thì một toán
quân Pháp từ phía Đà Lạt, vượt đỉnh núi Thiên Thai, đánh vào sau lưng chiến
khu. Giặc ập đến quá nhanh, Khu bộ trưởng Vũ Đức đã lệnh cho những người bên
cạnh đi hủy tài liệu, còn mình sử dụng súng ngắn chặn địch. Đồng chí đã chiến
đấu đến hơi thở cuối cùng và hy sinh anh dũng. Cuộc đời hoạt động, chiến đấu và
tư tưởng của đồng chí như viên ngọc luôn toả hào quang sáng ngời. Đồng chí đã
đi vào lịch sử như một nhà lãnh đạo xuất sắc của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động Việt Nam, hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Với những hoạt động và cống hiến
của đồng chí Hoàng Đình Giong cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đã thể
hiện phẩm chất cao đẹp của người chiến sỹ cộng sản kiên cường, bất khuất, trải
qua nhiều thử thách, hiểm nguy vẫn luôn trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh
cho sự nghiệp vẻ vang của Đảng. Ghi nhận những cống hiến và công lao đóng góp
to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, Năm 1980, Trung ương Đảng quyết
định đưa hài cốt đồng chí về an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch; năm 1998 Đảng và Nhà nước đã
truy tặng đồng chí Hoàng Đình Giong huân chương cao quý - Huân chương Hồ Chí
Minh. Năm 2009, Chủ
tịch nước ký quyết định truy tặng đồng chí Hoàng Đình Giong danh hiệu Anh hùng
Lực lượng Vũ trang Nhân dân. và để tưởng nhớ và ghi tạc công lao to lớn của
đồng chí, tỉnh Cao Bằng đã đxây dựng Khu di tích lưu niệm Hoàng Đình Giong ở
làng Nà Toàn, phường Đề Thám (quê nội của đồng chí). Khu di tích được xây dựng
với các hạng mục trang nghiêm, trở thành địa chỉ quen thuộc để các thế hệ trẻ
tổ chức sinh hoạt giáo dục truyền thống.
Kỷ niệm 115 năm Ngày sinh đồng chí Hoàng Đình Giong nhằm
khẳng định, tôn vinh và tri ân công lao to lớn và những cống hiến xuất sắc của
đồng chí đối với cách mạng Việt Nam và quê hương Cao Bằng. Qua đó, góp phần
giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, khơi dậy niềm tự hào, tinh thần
đoàn kết toàn dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đồng thời,
nhắc nhở mỗi chúng ta không ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách
mạng, bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên, hoàn thành tốt nhiệm vụ
Đảng và Nhà nước giao cho, xứng đáng với sự hy sinh cao cả, cống hiến to lớn
của các thế hệ cha anh đi trước.
Doãn Thành - BTG - Tổng hợp.