Công tác dân vận
trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
Ngay sau khi
thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng tổ chức ra các đoàn thể cách
mạng, hình thành bộ máy và cán bộ làm công tác dân vận. Xuất phát từ tình hình
thực tế của nước ta lúc bấy giờ là nước thuộc địa nửa phong kiến, lại là nước
nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng đã
tổ chức cho các đảng viên đi vào các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tuyên truyền
vận động, tổ chức và tập hợp quần chúng nhân dân, huấn luyện họ đấu tranh chống
áp bức, bất công, bóc lột đòi dân sinh, dân chủ ở khắp mọi nơi. Những cán bộ, đảng viên lớp đầu tiên của Đảng
đã không quản gian lao, thực hiện chủ trương "vô sản hóa", tiến hành
"ba cùng" với dân, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân lao động và thành
lập các tổ chức quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng, tạo sức mạnh và động lực
cho cách mạng theo tư tưởng của Bác Hồ: "Đem sức ta mà giải phóng cho
ta. Sau cao trào cách mạng (1930-1931), đến
thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939), phong trào Phản đế (1939-1941)
và phong trào Mặt trận Việt Minh (1941-1945), Đảng ta chủ chương mở rộng chính
sách đại đoàn kết toàn dân và công tác Mặt trận. Quần chúng được tập hợp qua
các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp. Đảng đã tập hợp đông
đảo các tầng lớp nhân dân, bao gồm nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc và cả
ngoại kiều… đây thực sự là bước phát triển mới trong việc xây dựng lực lượng
chính trị quần chúng.
Đứng trước
tình hình thế giới và trong nước có những biến động lớn, Đảng ta đề ra chủ
trương phát động cao trào quần chúng chống Nhật - Pháp, gấp rút tiến hành tổng
khởi nghĩa giành chính quyền; với khí thế của cả dân tộc bằng bạo lực chính
trị, kết hợp với lực lượng vũ trang toàn dân đã đứng lên làm Cách mạng Tháng
Tám thành công, lập nên Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945. Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh đường lối cách mạng của Đảng là đúng
đắn; đó cũng là thắng lợi của nghệ thuật vận động quần chúng; Đảng biết dựa vào
dân, tin ở dân, gắn bó với dân, tuyên truyền giác ngộ nhân dân, tổ chức tập hợp
và hướng dẫn quần chúng nhân dân đấu tranh giành chính quyền.
Công
tác dân vận trong 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945
- 1975)
Trong suốt 30
năm liên tục (1945-1975) của hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ
Tổ quốc với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, bằng niềm tin và
sức mạnh toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận đã góp phần
tuyên truyền, vận động, tổ chức những phong trào cách mạng rộng lớn, động viên
sức người, sức của, huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, nhân dân ta viết
nên những trang sử hào hùng.
Trong những năm kháng chiến và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc, Đảng ta đã tổ chức, rèn luyện và hình thành một đội ngũ cán bộ làm
công tác dân vận luôn gắn bó máu thịt với nhân dân ở khắp mọi miền của đất
nước. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã chịu đựng hy sinh gian khổ, kiên cường bám dân
để thực hiện xuất sắc nhiệm vụ Đảng giao cho. Nhân dân tin tưởng và che chở cho
cán bộ khi bị địch truy lùng, chăm sóc chạy chữa khi đau yếu, móc nối khi mất
liên lạc và đùm bọc, chia ngọt sẻ bùi như con em trong gia đình. Trong những
năm tháng đó, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, các phong trào "Ba
sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Năm xung phong"... đã rầm
rộ phát triển, tạo nên bầu nhiệt huyết cách mạng sôi động trong nhân dân cả
nước, tất cả vì sự nghiệp độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Công tác dân
vận đã góp phần củng cố niềm tin tuyệt đối của nhân dân đối với Đảng, Bác Hồ
với tấm lòng son sắt và thủy chung, không gì lay chuyển được.
Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thắng lợi của đường lối
mở rộng đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Đó là sự
thành công của việc xây dựng lực lượng chính trị ngày càng rộng rãi trong mặt
trận và các đoàn thể, trong lực lượng vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí Minh; “Vận
động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào,
góp thành lực lượng toàn dân..."; phát huy tới mức cao nhất về lực lượng,
trí tuệ và của cải tạo thành sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Công
tác dân vận trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Khi cả nước
bước vào thời kỳ mới, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước những
thuận lợi và khó khăn mới, Đảng ta động viên nhân dân cả nước nhanh chóng khắc
phục hậu quả chiến tranh, tiến hành công cuộc đổi mới, đưa đất nước ta ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Thực hiện đường lối đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, công tác dân vận đã hướng vào vận động các tầng
lớp nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính
trị, đã đóng góp quan trọng vào các thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất
nước trên tất cả các lĩnh vực.
Trong giai
đoạn này, công tác dân vận của Đảng càng được khẳng định rõ nét cả về lý luận
và thực tiễn. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”; phải đặc biệt chăm lo củng cố mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân.
Nghị quyết 08B của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) về “Đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Đây là sự
tổng kết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc về công tác vận động quần chúng
của Đảng. Nghị quyết 08B nêu lên 4 quan điểm chỉ đạo công tác quần chúng của
Đảng, đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, bốn quan điểm này còn mang tính
chiến lược đối với công tác dân vận của Đảng trong những giai đoạn tiếp theo
của cách mạng, đó là: (1) Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; (2)
Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân
dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân;
(3) Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; (4) Công tác quần chúng là
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Tại Đại hội
VII, Đảng ta xác định phải xây dựng cơ chế để thực hiện phương châm “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, ngày
18/02/1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở. Sau đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị
trấn, Chính phủ ra các nghị định thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ
sở. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg về tăng cường công
tác dân vận trong các cơ quan nhà nước...
Đứng trước yêu
cầu nhiệm vụ công tác vận động quần chúng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá IX) đã ban hành các nghị quyết về: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, vì dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; “về
Công tác dân tộc”; về “Công tác tôn giáo”. Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX đã
cụ thể hoá một bước quan điểm, tư tưởng Đại hội IX của Đảng về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với nội dung và chất lượng mới, chỉ đạo công tác
vận động quần chúng trong thời kỳ mới.
Nghị quyết Đại
hội X của Đảng đã xác định quan điểm về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc: “Đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố
có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc... Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính
trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện
pháp, hình thức; trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của
Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”.
Bộ Chính trị
khóa X đã ra Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25/02/2010 về việc ban hành
"Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị" một lần nữa khẳng
định: “Dân vận và công tác dân vận là
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là
điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng
cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”; đồng thời, xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo và thực
hiện công tác dân vận của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, của mọi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên; cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện công tác dân vận. Có
thể nói, đây là văn bản đầu tiên của Đảng có tính chế định về chế độ trách
nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác dân vận trong hệ thống chính trị
nước ta.
Sau đó, ngày
12/12/2013, Bộ Chính trị ban hành 2 quyết định quan trọng: Quyết định số
217-QĐ/TW về việc ban hành "Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội"; Quyết định số
218-QĐ/TW về ban hành "Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền" là
bước đột phá mới về phát huy dân chủ nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền, góp phần xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp
tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết
giữa Đảng với nhân dân”. Cụ thể hóa Nghị quyết XII của Đảng, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác dân vận và liên quan
đến công tác dân vận, điển hình là: Ban Bí thư ban hành Kết luận số 43-KL/TW,
ngày 07/01/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW khóa XI về “Tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới”, Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 về “Tăng cường và đổi mới công tác
dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”; Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày
16/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận
trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới”…
Trong giai
đoạn này, công tác dân vận tiếp tục được
đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả, đi vào chiều sâu, chăm lo nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt
giữa Đảng - Nhà nước với nhân dân, tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức,
hành động về công tác dân vận của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính
trị, nhất là của các cấp ủy đảng, chính quyền và người đứng đầu các cấp; Tăng
cường thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng liên quan đến công tác dân vận,
cuộc sống của nhân dân; tăng cường công tác dân vận của các cơ quan nhà nước,
chính quyền các cấp, nhất là trong giải quyết các vấn đề liên quan đến người
dân; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội theo hướng thiết thực, cụ thể, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, chú trọng công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Đẩy mạnh
các phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, trong đó có phong
trào thi đua “Dân vận khéo”; Phát huy dân chủ, nhất là vai trò của nhân dân
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tuấn
Anh - Ban Dân vận HU- Theo BDV TW