Quá trình chuẩn bị tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Để tỏ thiện chí và tranh thủ sự ủng hộ của
Trung Quốc và Liên Xô tháng 3/1954, Hồ Chủ tịch và Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đi Bắc Kinh để bàn với Ban lãnh đạo Trung Quốc về việc Việt Nam tham dự Hội
nghị Giơ-ne-vơ. Sau đó, cùng Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai sang Liên Xô họp
cấp cao ba nước Liên Xô-Trung Quốc-Việt Nam để bàn một giải pháp hòa bình cho
cuộc chiến tranh Đông Dương tại Hội nghị Giơ-ne-vơ sắp được triệu tập. Qua cuộc
họp này, chúng ta nhận thấy Liên Xô và Trung Quốc đều ủng hộ Việt Nam tham gia
Hội nghị Giơ-ne-vơ để đi
đến một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến tranh Đông Dương; đồng thời cũng hiểu
rằng, cả hai nước đều vì lợi ích của riêng họ mà thúc đẩy đi nhanh đến Hội nghị Giơ-ne-vơ, cả hai đều muốn hòa
hoãn với Mỹ và phương Tây làm dịu tình hình thế giới để xây dựng đất nước; cả
hai đều bộc lộ ý đồ ủng hộ giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương theo kiểu
Triều Tiên, tức là một giải pháp chia cắt Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ.
(Ảnh
internet)
Tháng 3/1954, Chính phủ Việt
Nam đã chuẩn bị thành lập Đoàn đi dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về hòa bình ở Việt Nam,
Đông Dương sau khi nhận lời mời của Liên Xô và Trung Quốc. Lúc đầu Chính phủ
chủ trương cử Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám dẫn đầu Đoàn đàm phán nhưng
khi cân nhắc yêu cầu và mục tiêu đặt ra, Chính Phủ đã quyết định cử Phó Thủ
tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng Đoàn Chính phủ Việt Nam dự Hội nghị Giơ-ne-vơ. Tham
gia còn có: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Công thương
Phan Anh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Công Tường, Cục trưởng Cục tác chiến Hà
Văn Lâu, Đặng Tích và nhiều chuyên viên...
Để
chuẩn bị tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ, Bộ
Ngoại giao đã chỉ thị cho hai Đại sứ quán Việt Nam ở Liên Xô và Trung Quốc tìm
hiểu các vấn đề liên quan có thể diễn ra tại Hội nghị Giơ-ne-vơ và lập trường
của Liên Xô và Trung Quốc về giải pháp; đồng thời lập một Ban công tác ở Bắc Kinh với
nhiệm vụ phối hợp với Bộ Ngoại giao Trung Quốc chuẩn bị các tài liệu cho Hội
nghị Giơ-ne-vơ.
Diễn biến Hội nghị Giơ-ne-vơ: Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954 về hòa bình ở
Việt Nam, Đông Dương được tổ chức theo quyết nghị của Hội nghị ngoại trưởng bốn nước lớn gồm Liên Xô, Mỹ, Anh,
Pháp tại Berlin tháng 2/1954 để giải quyết vấn đề Triều Tiên và chiến tranh tại
Đông Dương. Hội nghị khai mạc ngày 8/5/1954 và kết thúc vào ngày 21/7/1954.
Thành
phần tham dự Hội nghị: Có 9 bên tham dự (không phải là 9 quốc gia): Liên Xô,
Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương
Quốc Lào và Vương Quốc Campuchia. Đại
diện lực lượng kháng chiến Pathet Lào và Khmer Itsarak tuy đã có mặt ở
Giơ-ne-vơ cùng với Đoàn ta nhưng không được các đoàn phương Tây chấp nhận tham
dự Hội nghị.
Các nước đến dự Hội nghị
Giơ-ne-vơ về hòa bình ở
Việt Nam, Đông Dương có những lợi ích, chiến lược và với
những mục tiêu khác nhau.
Liên Xô sau khi Stalin mất,
Khơ-rut-sốp lên cầm quyền, chủ trương hòa hoãn với Mỹ và Tây Âu, làm dịu tình
hình quốc tế. Liên Xô tập trung giải quyết vấn đề Berlin và nước Đức, đối phó
với mối đe dọa của Mỹ và NATO, quan tâm đến châu Á có mức độ. Do đó, tại Hội
nghị Giơ-ne-vơ, Liên Xô chỉ xử lý những vấn đề chung, tích cực đấu tranh
bảo vệ quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thúc đẩy để đạt được những thỏa
thuận mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể chấp nhận được. Bên cạnh đó, tại Hội
nghị, Liên Xô tranh thủ Pháp trong các vấn đề châu Âu và vận động Pháp không
tham gia Cộng đồng Phòng thủ châu Âu (CDE) do Mỹ chủ xướng.
Trung Quốc đến Hội nghị với mục
tiêu hàng đầu là sớm đạt được một giải pháp hòa bình ở Đông Dương nhằm tránh
mọi sự can thiệp của Mỹ, tránh quốc tế hóa cuộc chiến tranh Đông Dương và đẩy
chiến tranh xa biên giới bảo đảm an ninh phía nam Trung Quốc. Tại Giơ-ne-vơ,
Trung Quốc còn có mục tiêu khác quan trọng hơn đó là bình thường hóa quan hệ
với các nước Tây Âu, trước hết là về kinh tế - thương mại và ngoại giao để phá
bao vây, cấm vận của Mỹ, vào Liên Hợp quốc, thúc đẩy giải quyết vấn đề Đài
Loan.
Pháp
được Anh ủng hộ, muốn đạt được một giải pháp đình chiến ít có hại nhất, làm sao
không lập Chính phủ liên hợp, chia cắt Việt Nam, giữ Lào và Campuchia càng
nguyên vẹn càng tốt, trong khi hạn chế đến mức tối đa thắng lợi của cách mạng
Việt Nam và Đông Dương. Pháp còn có hai mục tiêu quan trọng là bảo toàn quân
đội viễn chinh để tiếp tục giữ các thuộc địa còn lại, trấn an dư luận trong
nước.
Anh muốn giải quyết hòa bình
cuộc chiến tranh Đông Dương, làm dịu tình hình căng thẳng ở Viễn Đông vì như
vậy có lợi cho việc củng cố "Khối thịnh vượng chung" ở châu Á, nhất
là trong lúc Anh phải đối phó với phong trào du kích ở Malaysia.
Mỹ chống Liên Xô quyết liệt ở
châu Âu, bao vây cấm vận Trung Quốc ở châu Á. Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, Mỹ luôn
tìm cách phá Hội nghị, chống bất cứ giải pháp nào nếu không cải thiện rõ rệt
tương quan lực lượng quân sự có lợi cho Pháp nhằm tạo cho Pháp và phương Tây
thế mạnh trên bàn đàm phán. Do phải tranh thủ Pháp tham gia Cộng đồng Phòng thủ
châu Âu, Mỹ không thể ngăn cản Pháp đi vào giải pháp ở Đông Dương, không thể
can thiệp trực tiếp vào Đông Dương vì Quốc hội Mỹ phản đối. Mỹ tìm mọi cách
ngăn cản Pháp không được thỏa hiệp quá mức hoặc ký hiệp định bất lợi cho ý đồ
của Mỹ thay chân Pháp ở Đông Dương.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham
gia Hội nghị Giơ-ne-vơ với lập trường cơ bản là hòa bình, độc lập, thống nhất,
dân chủ. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết trên cơ sở lập trường cơ bản đó của
Việt Nam. Thi hành các điều khoản quân sự, chính trị của Hiệp định Giơ-ne-vơ là
nhằm củng cố hòa bình, miền Bắc vừa giành được độc lập cần phải có hòa bình để
xây dựng đất nước. Hòa bình phải được bảo vệ trên toàn cõi Đông Dương.
Mặc dù đến Hội nghị với mục
tiêu và lợi ích khách nhau nhưng do tương quan lực lượng quốc tế lúc đó, Hội
nghị đã bị các nước lớn chi phối. Hội nghị Giơ-ne-vơ trải qua 75 ngày với 31
phiên họp, trong đó có 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp Trưởng đoàn. Có thể
chia Hội nghị thành 3 giai đoạn:
* Giai
đoạn 1 (từ 08/5/1954 - 19/6/1954):
- Ngoài việc trao đổi chương
trình nghị sự, các Đoàn trình bày lập trường của mình về giải pháp cho vấn đề
Việt Nam và Đông Dương.
- Đoàn Pháp (Ngoại trưởng
Bidault) phát biểu chỉ giải quyết vấn đề quân sự, không đề cập vấn đề chính trị
và tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vấn đề Việt Nam, được Mỹ ủng hộ.
- Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu yêu cầu phải có đại diện kháng chiến
Lào và Campuchia tham dự. Ngày 10/5/1954, ông Phạm Văn Đồng phát biểu, đưa ra
lập trường 8 điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là giải quyết đồng thời cả hai
vấn đề quân sự và chính trị, giải quyết đồng thời cả ba vấn đề Việt Nam, Lào,
Campuchia. Ông Phạm Văn Đồng nhấn mạnh, Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc cơ
bản của nhân dân Việt Nam, Campuchia, Lào. Quân đội nước ngoài phải rút khỏi ba
nước Đông Dương là cơ sở quan trọng nhất cho chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Đông Dương. Trung Quốc, Liên Xô ủng hộ lập trường của Việt Nam.
- Trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân
Lai đưa ra hai điều kiện để lập lại hòa bình ở Đông Dương: Pháp chấm dứt chiến
tranh thực dân, Hoa Kỳ chấm dứt can thiệp vào Đông Dương.
-
Trưởng đoàn Liên Xô Bộ trưởng NG Mô-lô-tốp đề nghị lập Ủy ban giám sát quốc tế
gồm các nước trung lập. Tại phiên họp lần thứ 4, ông Mô-lô-tốp đề nghị lấy hai
phương án của Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm cơ sở thảo luận.
Sau 4 phiên họp rộng, Chủ tịch
Hội nghị, Ngoại trưởng Anh Eden yêu cầu họp hẹp. Mô-lô-tốp đề nghị vấn đề quân
sự, chính trị và vấn đề ba nước sẽ bàn song song. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Liên Xô, Trung Quốc đồng ý. Anh và Pháp tán thành, Mỹ đành phải chấp nhận.
-
Ngày 25/5/1954, trong phiên họp hẹp, ông Phạm Văn Đồng đưa ra 2 nguyên tắc cho
vấn đề đình chiến: (1) Ngừng bắn hoàn toàn trên toàn cõi Đông Dương, (2) Điều
chỉnh vùng trong mỗi nước, trong từng chiến trường trên cơ sở đất đổi đất để
mỗi bên có những vùng hoàn chỉnh tương đối rộng lớn thuận lợi cho quản lý hành
chính và hoạt động kinh tế. Đại diện các bộ tư lệnh có liên quan nghiên cứu tại
chỗ những biện pháp ngừng bắn để chuyển tới Hội nghị xem xét và thông qua.
-
Ngày 27/5/1954, Đoàn Pháp đồng ý lấy đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm
cơ sở thảo luận về đề nghị đại diện của hai Bộ Tư lệnh gặp nhau ở Giơ-ne-vơ để
nghiên cứu việc chia ranh giới những khu vực tập trung quân ở Đông Dương. Cùng
ngày, Đoàn Trung Quốc đưa ra 6 điểm về vấn đề quân sự như ngừng bắn hoàn toàn
và cùng một lúc ở ba nước Đông Dương, thành lập Ủy ban kiểm soát quốc tế gồm
các nước trung lập nhưng chưa đề cập tới mặt chính trị của giải pháp.
- Ngày 29/5/1954, sau 4 phiên
họp toàn thể và 8 phiên họp cấp Trưởng đoàn, Hội nghị Giơ- ne-vơ ra quyết định:
(1) Ngừng bắn toàn diện và đồng thời, (2) Đại diện hai Bộ tư lệnh gặp nhau ở
Giơ-ne-vơ để bàn về bố trí lực lượng theo thỏa thuận đình chiến bắt đầu bằng
phân vùng tập kết quân đội ở Việt Nam.
- Ngày 12/6/1954, Nội các
Bidault bị Quốc hội Pháp đánh đổ. Ngày 29/6/1954, Chính phủ Mendes France lên
cầm quyền, hứa với Quốc hội Pháp trong vòng một tháng sẽ giải quyết xong vấn đề
lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đây là sự kiện quan trọng góp phần phá vỡ bế
tắc, thúc đẩy đàm phán tiến triển.
* Giai đoạn 2 (từ 20/6/1954 - 10/7/1954)
-
Trong giai đoạn này, hầu hết Trưởng đoàn các nước về báo cáo, chỉ có Trưởng
đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng ở lại. Các quyền Trưởng đoàn tổ
chức các cuộc họp hẹp và họp tiểu ban quân sự Việt-Pháp. Các cuộc họp chủ yếu
bàn các vấn đề tập kết, chuyển quân, thả tù binh, đi lại giữa hai miền.
- Trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân
Lai có cuộc gặp với Trưởng đoàn Chính phủ Phnôm Pênh và Chính phủ Viêngchăn.
Đặc biệt Chu Ân Lai gặp Thủ tướng Pháp Mendes France tại Berne ngày 23/6/1954
bàn một số vấn đề quan trọng trong đó hai ông nhất trí vấn đề quan trọng nhất
là vạch vĩ tuyến nào để chia cắt Việt Nam. Sau cuộc gặp Chu Ân Lai-Mendes
France, vấn đề chia cắt Việt Nam là mục tiêu đàm phán của Đoàn Pháp. Chauvel
gặp Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu vấn đề chia cắt ở vĩ tuyến 19.
-
Từ ngày 3-5/7/1954, tại Liễu Châu 9 (Trung Quốc), Hồ Chủ tịch gặp Chu Ân Lai để
bàn về các vấn đề phân vùng, thời hạn tổng tuyển cử, vấn đề Lào và Campuchia.
Hai bên chưa nhất trí về giới tuyến cụ thể: Ta muốn vĩ tuyến 16, Chu Ân Lai
muốn vĩ tuyến 17; về thời hạn tổng tuyển cử: Ta nêu 6 tháng, Chu Ân Lai đề nghị
hai năm.
- Ngày 9/7/1954, tại cuộc họp
tiểu ban quân sự, ta đề nghị vĩ tuyến 14 nhưng Pháp vẫn chủ trương vĩ tuyến 18.
Hồ Chủ tịch điện cho Đoàn Việt nam Dân chủ Cộng hòa: Cho Pháp dùng Đường 9 và
Đà Nẵng để Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giữ lấy Liên khu 5.
- Ngày 10/7/1954, Chu Ân Lai
điện khuyên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên nhượng bộ về vĩ tuyến, về Lào, về Ủy
ban kiểm soát và giám sát quốc tế để sớm đi tới Hiệp định.
Như vậy các cuộc họp hẹp ở
Giơ-ne-vơ trong giai đoạn này không có tiến triển gì đáng kể.
* Giai đoạn 3 (từ ngày 11-21/7/1954): Nối
lại các cuộc đàm phán cấp Bộ trưởng
- 10 ngày cuối của Hội nghị
Giơ-ne-vơ đã diễn ra nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi tay đôi, tay ba hoặc nhiều bên
giữa các Trưởng đoàn. Các phiên họp chủ yếu thông qua các văn kiện, kể cả các
điều khoản thi hành Hiệp định. Cuối cùng là phiên họp toàn thể bế mạc Hội nghị.
- Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và Đoàn Pháp đàm phán rất gay go về phân chia vĩ tuyến (Đoàn ta nêu vĩ
tuyến 16 vì ta muốn làm chủ đường 9 từ Savanakhet đi Quảng Trị là con đường duy
nhất cho Lào đi ra biển, Đoàn Pháp nêu vĩ tuyến 18); về thời hạn tổ chức tổng
tuyển cử và các điều khác của Hiệp định, đặc biệt là Hiệp định về Campuchia
phải ký vào sáng 21/7/1954.
- Ngày 21/7/1954, Hội nghị
Giơ-ne-vơ về hòa bình ở Việt Nam, Lào, Cam puchia kết thúc. Hội nghị thông qua
các văn kiện.
HC-
BTGHU trích nguồn BTG TW