Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 -
1945): Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Tổng Công hội Đỏ đã tập hợp lực lượng thợ thuyền, đội quân chủ lực của
cách mạng Việt Nam, tạo nên cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931. Cuối năm
1931, phong trào đấu tranh của GCCN Việt Nam bị thực dân Pháp đàn áp dã man, hầu
hết số cán bộ Đảng và Công hội Đỏ đều bị địch bắt, khiến cho mối liên lạc giữa
Đảng và quần chúng, giữa Công hội Đỏ và phong trào công nhân gần như bị gián đoạn.Trong
điều kiện đó, bất chấp sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp, Công hội Đỏ vẫn
tích cực tuyên truyền, vận động công nhân, phát triển tổ chức. Từ năm 1932-1936,
phong trào cách mạng trong cả nước bắt đầu phục hồi. Từ năm 1936-1939, tổ chức Công hội Đỏ
đổi tên thành Nghiệp đoàn, Hội Ái hữu chuyển sang thời kỳ hoạt động
bán công khai. Nhờ sự tổ chức linh hoạt, thích hợp với
tình hình, phong trào công nhân giai đoạn này vẫn phát triển mạnh mẽ lên đỉnh
điểm mới. Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân
Pháp đầu hàng và thỏa hiệp với phát xít Nhật thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ
chống chiến tranh của nhân dân ta, thủ tiêu các quyền tự do nghiệp đoàn. Trước
tình hình đó, tổ chức Nghiệp đoàn, Hội Ái hữu phải rút vào hoạt động bí mật và
lấy tên là “Hội công nhân phản đế”, năm 1941 đổi thành “Hội Công nhân cứu
quốc” làm nòng cốt cho hoạt động của tổ chức Việt Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công
đoàn Việt Nam thực sự là trung tâm đoàn kết của công nhân lao động Việt Nam. Với trên 20
vạn người trong năm 1945, các đoàn viên Công đoàn trở thành lực lượng nòng cốt
làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 - 1954): Sau Cách mạng tháng Tám thành
công năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng 3/1946, Hội nghị đại biểu Công
nhân cứu quốc Bắc Bộ, Trung Bộ và Tổng Công đoàn Nam Bộ đã quyết định thống nhất
về mặt tổ chức trên phạm vi cả nước thành “Hội Công nhân cứu quốc”. Tháng
6/1946, tại Hội nghị cán bộ Công đoàn cứu quốc đã đổi tên “Hội Công nhân cứu quốc”
thành “Công đoàn”. Ngày 20/7/1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, “Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam” đã chính thức được thành lập và được công nhận là
thành viên chính thức của Liên hiệp Công đoàn thế giới vào năm
1949.
Trong những năm đầu đất nước giành độc lập, tổ chức Công đoàn và GCCN
Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy thành quả
của cuộc Cách mạng Tháng Tám, tham gia tích cực vào cuộc Tổng Tuyển cử bầu Quốc
hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước dã tâm xâm lược nước ta
một lần nữa của thực dân Pháp, các đội cảm tử Thủ đô, trong đó nòng cốt là công
nhân đã chiến đấu với tinh thần quả cảm, anh dũng.
Thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam đã tổ chức vận động công nhân, viên chức, lao động (CNVCLĐ)
tập trung xây dựng nhà máy, công xưởng, sản xuất vũ khí, khí tài quân sự; khắc
phục khó khăn, hăng hái thi đua lao động phục vụ kháng chiến. Tại chiến khu Việt
Bắc, từ ngày 01-15/01/1950, Đại hội lần I Công đoàn Việt Nam đã khẳng định mục
tiêu: “Động viên công nhân viên chức cả nước, nhất là công nhân ngành Quân giới
sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng
lợi”.Tại Đại hội này, đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch.
Tháng 2/1951, Đại hội lần thứ II của Đảng đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh phát
triển kinh tế phục vụ tổng phản công, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn
toàn. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng, Công đoàn vận động công nhân hăng
hái sản xuất và tham gia quản lý, xây dựng xí nghiệp. Đây là bước chuyển biến lớn
về nhận thức tư tưởng và phương thức hoạt động Công đoàn. Từ đây trong các xí
nghiệp quốc doanh, Công đoàn đại diện cho công nhân tham gia các Ủy ban xí nghiệp,
góp phần trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, đưa nền kinh tế kháng chiến
phát triển về mọi mặt. Ở vùng tự do, Công đoàn phát động công nhân “Thi đua sản
xuất, thi đua xây dựng”, “Cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến, trau dồi nghề
nghiệp”. Phong trào được tổ chức, chỉ đạo tương đối chặt chẽ, thực hiện dân chủ
trong quản lý sản xuất.
Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tập hợp,
đoàn kết, phát huy vai trò tiên phong của GCCN vượt qua muôn vàn khó khăn, gian
khổ, hy sinh, đấu tranh kiên cường, góp phần cùng quân và dân cả nước làm nên
chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc
vẻ vang 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954- 1975): Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam tạm thời bị chia thành hai miền, miền Bắc hoàn
toàn được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội
(CNXH), miền Nam còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ. Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Hội
nghị Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (khóa I) họp vào tháng
8/1954 đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là “Cần phải động viên, tổ chức đông đảo
quần chúng lao động trong các đô thị thành một lực lượng mạnh mẽ làm chỗ dựa tốt
nhất, chắc chắn nhất cho chính quyền tiến hành công tác tiếp thu, phục hồi sản
xuất, giữ gìn an ninh, trật tự thành phố”.
Ở miền Bắc tiến hành công cuộc tái thiết đất nước, khó khăn tiếp tục đặt
lên vai người công nhân. Với trách nhiệm chủ nhân của đất nước, đội
ngũ CNVCLĐ đã đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn hoạt động sản xuất tại các cơ sở công nghiệp
đã phục hồi. Qua thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, những điển hình trong
phong trào thi đua yêu nước của GCCN được lan tỏa, như “Sóng Duyên Hải”,
“Hợp tác xã Thành Công”, “Ba quyết tâm”…đã xuất hiện nhiều CNVCLĐ tiêu biểu được
Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, là những tấm gương
sáng trong học tập, lao động sản xuất và chiến đấu.
Ở miền Nam, phong trào công nhân, Công đoàn hoạt động trong điều kiện
vô cùng khó khăn, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm ra sức khủng
bố, đàn áp. Các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp bị đình đốn, đời sống của
CNVCLĐ khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng đã chỉ đạo các cơ sở trong nội
thành, trong các đồn điền phải tìm mọi cách bám đất, bám dân phát triển lực lượng,
tổ chức cho công nhân đấu tranh.
Ngày 5/11/1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Sắc lệnh số
108-SL/L10 về ban hành Luật Công đoàn đã tạo cơ sở pháp lý, nâng cao vị trí của
tổ chức Công đoàn, củng cố vai trò lãnh đạo của GCCN trong tình hình mới. Thắng
lợi của công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu phát
triển kinh tế, văn hóa đã tạo ra những tiền đề quan trọng góp phần xây dựng và
đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước
nhà, thành quả đó có đóng góp quan trọng của GCCN và tổ chức Công đoàn Việt
Nam.
Trước những yêu cầu mới, Đại hội lần thứ II Công đoàn Việt Nam được tổ
chức tại Hà Nội từ ngày 23-27/2/1961đã quyết định đổi tên “Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam” thành “Tổng Công đoàn Việt Nam”. Đại hội đã đề ra mục
tiêu: “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản
xuất, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với tinh thần mỗi người làm việc bằng
hai vì miền Nam ruột thịt, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”; đồng chí
Hoàng Quốc Việt tiếp tục được bầu làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ III Công đoàn
Việt Nam được tổ chức từ ngày 11-14/2/1974 tại Hà Nội bầu đồng chí
Tôn Đức Thắng - Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm Chủ
tịch danh dự, đồng chí Hoàng Quốc Việt tiếp tục giữ cương vị Chủ tịch. Mục tiêu
của Đại hội là “Các cấp Công đoàn phải phát động phong trào thi đua lao động sản
xuất, cần kiệm xây dựng CNXH với năng suất lao động, hiệu quả công tác, phục vụ
và tham gia chiến đấu, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Tổng Công đoàn Việt Nam tham gia xây dựng một số chế độ, chính sách bổ sung và
sửa đổi về lao động, tiền lương, tiền thưởng. Liên hiệp Công đoàn các tỉnh,
thành phố đã ký kết Nghị quyết liên tịch với cơ quan chính quyền đồng cấp về việc
tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối với CNVCLĐ. Nhiều Công đoàn
cơ sở đã kịp thời động viên CNVCLĐ thi đualao động, sản xuất, phấn đấu
hoàn thành kế hoạch được giao. Việc thực hiện quy tắc an toàn lao động, vệ
sinh công nghiệp được thực hiện tốt hơn, cải thiện điều kiện làm việc
cho CNVCLĐ.
Năm 1965 Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam được thành lập đã
không ngừng củng cố và phát triển, vừa tổ chức cho CNVCLĐ các thành phố đấu
tranh, vừa động viên CNVCLĐ vùng giải phóng đẩy mạnh sản xuất phục vụ chiến đấu.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân 1968 và Chiến dịch
Hồ Chí Minh, Công đoàn giải phóng đã vận động CNVCLĐ ở các đô thị đồng loạt
nổi dậy, phối hợp với lực lượng vũ trang tiêu diệt địch, góp phần
cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
Thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội
(1975 - 1986): Đầu năm 1976, nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ra đời, đã tạo điều kiện cơ bản để thống nhất tổ chức Công
đoàn trên phạm vi cả nước. Thực
hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, từ tháng 01/1976 Tổng Công đoàn Việt Nam và
Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam bắt tay vào chuẩn bị các điều kiện cho
việc thống nhất tổ chức Công đoàn của GCCN Việt Nam. Ngày 6/6/1976, Hội
nghị Công đoàn toàn quốc được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định
thống nhất Công đoàn hai miền Nam, Bắc thành “Tổng Công đoàn Việt Nam”.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV được tổ
chức tại Hà Nội từ ngày 08-11/5/1978 đã nêu rõ mục tiêu: “Động
viên GCCN và những người lao động khác thi đua lao động sản xuất, phát triển
kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa trong cả nước”; đồng chí Nguyễn Văn
Linh, Ủy viên Bộ Chính trị được bầu làm Chủ tịch.
Những năm 1981-1982, Công đoàn đã tiến hành
nhiều đợt tuyên truyền sâu rộng trong công nhân, viên chức về tình
hình và nhiệm vụ của đất nước, về chủ trương, chính sách, nhất là các chính
sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Đi đôi với giáo dục chính trị, Công đoàn đã
có nhiều cố gắng trong việc duy trì phong trào học bổ túc văn hoá, kỹ thuật,
nghiệp vụ; đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng, thể dục thể
thao; công tác báo chí, xuất bản của Công đoàn đã có những tiến bộ mới.
Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam tiến hành
từ ngày 16-18/11/1983 đã khẳng định mục tiêu: “Động
viên công nhân, lao động thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng, là
phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”,
Đại hội đã Quyết định lấy ngày 28/7/1929 là Ngày thành lập Công đoàn Việt
Nam, đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm Chủ tịch.
Các phong trào thi đua lao động sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật
trong CNVCLĐ đã tạo được bước chuyển biến tích cực, nhiều điển hình tiên
tiến và nhân tố mới đã hình thành, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Công tác phát triển đoàn viên được Công đoàn chú trọng, số
đoàn viên và Công đoàn cơ sở ngày càng tăng lên. Bên cạnh đó, Công đoàn còn
tham gia vào lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, đề nghị Nhà nước bổ
sung phụ cấp ốm đau, thai sản, tại nạn lao động, trợ cấp khó khăn…Các chế độ
nghỉ ngơi, tham quan du lịch và các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao được
duy trì, phát triển.
Nhân dịp kỷ niệm 55 năm Ngày thành lập Công
đoàn Việt Nam (28/7/1929-28/7/1984), Nhà nước đã tặng Tổng Công đoàn Việt Nam
Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt
Nam.
Thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước (1986 - 2019): Trong tình hình đất nước tiến hành đối
mới, từng bước hội nhập, Đại hội lần thứ VI Công đoàn Việt Nam họp từ ngày17-20/10/1988
tại Hà Nội đã xác định mục tiêu: “Thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”. Đại hội Quyết định đổi
tên “Tổng Công đoàn Việt Nam” thành “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam”; đồng
chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Chủ tịch. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới,
GCCN và tổ chức Công đoàn Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào kết quả thực hiện kế
hoạch 5 năm (1986 - 1990), đưa đất nước ta dần thoát khỏi khó khăn, ổn định đời
sống nhân dân và CNVCLĐ. Đại
hội lần thứ VII Công đoàn Việt Nam được tổ chức từ ngày 09-12/11/1993
tại Hà Nội đã nhấn mạnh yêu cầu “Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn, góp phần
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, chăm lo bảo vệ lợi ích công nhân lao động”; đồng
chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ VIII Công
đoàn Việt Nam họp từ ngày 03-06/11/1998 nhấn mạnh “Vì sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công
bằng xã hội, xây dựng GCCN và tổ chức Công đoàn vững mạnh”; đồng chí Cù Thị
Hậu được bầu làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ IX Công đoàn Việt Nam họp từ ngày
10-13/10/2003, đồng chí Cù Thị Hậu tiếp tục được bầu lại làm Chủ tịch,
Đại hội đã khẳng định “Xây dựng GCCN và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo
vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, góp phần tăng cường đại đoàn kết
dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”.
Đại hội lần thứ X Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 02-05/11/2008 đã
xác định mục tiêu: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Công đoàn các cấp, hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy
đoàn viên, CNVCLĐ làm đối tượng vận động, chuyển mạnh hoạt động Công đoàn vào
việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định,
tiến bộ, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước”; đồng
chí Đặng Ngọc Tùng được bầu làm Chủ tịch. Nhiệm kỳ lần thứ X của Công đoàn Việt Nam hoạt động trong bối cảnh GCCN
Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trước tình
hình đó, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành
Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết thể hiện
quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước về xây dựng GCCN, đồng thời đáp ứng nguyện
vọng của hàng triệu CNVCLĐ trong cả nước. Những hoạt động triển khai thực hiện
Nghị quyết 20-NQ/TW đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, cùng
với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và Công đoàn đã tạo
được chuyển biến trong cả nhiệm kỳ hoạt động, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp chính đáng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên
và người lao động.
Đại hội lần thứ XI Công đoàn Việt Nam được tổ chức từ ngày 27-30/7/2013 đã
xác định phương châm hành động, đó là “Vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước, tiếp tục đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động công đoàn”; đồng chí Đặng Ngọc Tùng tiếp tục
được bầu làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ XII Công đoàn Việt Nam diễn ra từ ngày
24-26/9/2018, đồng chí Bùi Văn Cường được bầu làm Chủ tịch. Đại hội đã xác định
09 nhóm chỉ tiêu, 09 nhiệm vụ tổng quát và 03 khâu đột phá trong cả nhiệm kỳ,
ngoài ra còn có 01 chương trình trọng tâm "Công đoàn Việt Nam đồng hành
cùng Chính phủ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển bền vững đất
nước".
Có thể khẳng định rằng, trong công cuộc đổi mới đất nước, trải qua 07 kỳ Đại hội
Công đoàn Việt Nam, GCCN Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng
và chất lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế,
là lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
HC - BTG trích nguồn BTG
TW