Rối loạn do thiếu hụt I-ốt là một vấn đề
sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng tại nhiều nước trên thế giới và Việt Nam. Trên thế
giới có khoảng 1,6 tỷ người sống trong vùng thiếu I-ốt, tỷ lệ mắc bướu cổ toàn
cầu ước đoán khoảng 655 triệu người. Nhiều nhất ở khu vực Châu Á, Châu Phi. Vùng
Đông Nam Á có khoảng 175 triệu người bị bệnh bướu cổ chiếm 26,7% số người bị bệnh
bướu cổ trên thế giới.
Tổ
chức xe tuyên truyền lưu động nhân Ngày toàn dân mua và sử dụng muối I-ốt
02/11
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực thiếu
I-ốt nặng. Theo kết quả điều tra năm 1994 do Bệnh viện Nội tiết phối hợp với UNICEF
thực hiện, thì 94% dân số nằm trong vùng có thiếu hụt I-ốt; trong đó tỷ lệ bướu
cổ học sinh 8-12 tuổi là 22,4%. Từ năm 1995 chương trình phòng chống các rối
loạn do thiếu I-ốt được triển khai trên toàn quốc và đã thu được nhiều kết quả,
tỷ lệ phủ muối I-ốt ngày một tăng lên; hiểu biết của người dân về ích lợi của sử
dụng muối I-ốt được nâng cao và tỷ lệ bướu cổ học sinh 8-12 tuổi giảm xuống rõ
rệt.
I-ốt là một vi chất dinh dưỡng rất cần
thiết cho cơ thể. Cơ thể không tự tổng hợp được I-ốt mà phải lấy từ ngoài vào
qua thức ăn, nước uống và không khí. Cơ thể sử dụng I-ốt để tổng hợp nên
hormone tuyến giáp là T3 (triiodotyronin) và T4 (tetra iodothyroxin).
Hormone tuyến giáp có nhiều tác dụng quan trọng cần cho tăng trưởng và sự phát
triển bình thường của cơ thế.
Thiếu I-ốt gây thiểu năng tuyến giáp,
thiểu năng trí tuệ, có thể làm tổn thương thần kinh vận động, đần độn và thai
chết lưu, sẩy thai, đẻ non ở phụ nữ có thai thiếu I-ốt. Đặc biệt những tổn
thương của hệ thống thần kinh để lại những di chứng nặng nề không thể hồi phục
được, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ cộng đồng, đến nền kinh tế xã hội và phát
triển nòi giống. Trong đó quan trọng nhất là bệnh đần độn do thiếu I-ốt kéo dài
và sớm dẫn đến trẻ chậm tiếp thu, học hành kém trở nên là gánh nặng của gia đình,
xã hội và giảm chất lượng phát triển giống nòi. Thiếu I-ốt gây tác hại đến mọi
người tuy nhiên nặng nề nhất vẫn là trẻ em, phụ nữ có thai và phụ nữ trong diện
tuổi sinh đẻ.
Có nhiều biện pháp nhằm bổ sung I-ốt cho
cơ thể trong đó biện pháp bổ sung chất I-ốt vào muối ăn để phòng các rối loạn
do thiếu I-ốt là biện pháp tốt nhất và phổ biến nhất hiện nay. Biện pháp “muối I-ốt
hóa” có giá thành thấp, dễ áp dụng và mọi người đều phải ăn muối với một lượng
nhất định trong các bữa ăn hàng ngày, hàm lượng I-ốt trộn vào muối được tính
toán phù hợp với nhu cầu của cơ thể; do đó có thể tránh được tác dụng phụ không
mong muốn.
Tại huyện Long Thành, năm 2019 độ bao phủ
muối I-ốt đạt 89% (tiêu chuẩn tối thiểu đạt 90%), tỷ lệ hộ dùng muối I-ốt đủ tiêu
chuẩn phòng bệnh đạt 86%, I-ốt niệu trung vị khoảng 9,23 mcg/dl thấp hơn so với
mức tiêu chuẩn là 10 mcg/dl.
Việc tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tỷ
lệ hộ sử dụng muối I-ốt chưa đủ tiêu chuẩn phòng bệnh còn thấp, các yếu tố ảnh
hưởng đến tính sẵn có của muối I-ốt và sự phổ cập muối I-ốt trong cộng đồng có ý
nghĩa vô cùng quan trọng, qua đó kịp thời có những giải pháp can thiệp hiệu quả.
Có nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng thiếu
hụt I-ốt vẫn còn tồn tại như: kiến thức và thực hành về sử dụng, bảo quản muối I-ốt;
chất lượng muối I-ốt trên thị trường và nhiều nguyên nhân khác. Cần thực hiện các
giải pháp nhằm cải thiện tình hình thiếu hụt I-ốt tiến tới thanh toán tình trạng
thiếu hụt I-ốt theo mục tiêu đề ra.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 441/Ttg ngày 8/9/1994 vận động toàn dân dùng muối I-ốt thay muối thường và lấy
ngày 2/11 hàng năm là ngày toàn dân mua và dùng muối I-ốt. Ngày Toàn dân mua và
dùng muối I-ốt năm nay hướng đến các giải pháp tập trung cho công tác truyên
truyền vận động mua và sử dụng, bảo quản muối I-ốt đúng cách và cung ứng đủ các
sản phẩm có I-ốt đạt chất lượng phòng bệnh.
Nguyễn
Thi Văn Văn – Trung tâm Y tế Long Thành