Ngày
15/12/2020, trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam có đăng bài viết “Sự hội tụ của ý Đảng
- lòng dân vì lợi ích quốc gia - dân tộc” của tác giả Lê Hải Bình - Vụ
trưởng Vụ Thông tin đối ngoại, Ban Tuyên giáo Trung ương. Nhân kỷ niệm 91 năm
ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 -03/02/2021) và chào mừng Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban Tuyên giáo
Huyện ủy trân trọng giới thiệu bài viết này.
Chặng đường trước mắt của đất nước ta có cả cơ hội
và thách thức đan xen nhau. Hơn lúc nào hết, việc vận dụng sáng tạo bài học về
sự hội tụ giữa ý Đảng - lòng dân sẽ tạo ra sức mạnh vô địch để cách mạng Việt
Nam và cuộc trường chinh của dân tộc Việt Nam đi đến mục tiêu cao đẹp của toàn
Đảng và toàn dân tộc.
Trên
chặng đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam chín thập niên qua, Đảng ta đã dẫn dắt
toàn dân tộc vượt qua những thách thức khắc nghiệt nhất, giành được nhiều thắng
lợi to lớn. Chuẩn bị bước vào chặng đường mới hướng tới 100 năm thành lập Đảng,
trên cơ sở cơ đồ của đất nước hiện nay, Đảng đề ra mục tiêu phấn đấu xây dựng
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”, là nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát
triển vào năm 2045. Chặng đường trước mắt của đất nước ta có cả cơ hội và thách
thức đan xen nhau. Hơn lúc nào hết, việc vận dụng sáng tạo bài học về sự hội tụ
giữa ý Đảng - lòng dân sẽ tạo ra sức mạnh vô địch để cách mạng Việt Nam và cuộc
trường chinh của dân tộc Việt Nam đi đến mục tiêu cao đẹp của toàn Đảng và toàn
dân tộc.
|
Trước
khi về tiếp quản Thủ đô, cán bộ Đại đoàn Quân tiên phong được nghe Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói chuyện tại Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ. Người căn dặn: “Các vua
Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
(19-9-1954) _Nguồn: http://hochiminh.vn
|
Sự hội tụ về lợi ích của lực lượng lãnh đạo với lợi
ích của nhân dân là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi
Trong chiều dài lịch sử Việt Nam, đặc biệt là khi Tổ quốc đối mặt với thách
thức to lớn, yếu tố quyết định cho thắng lợi cuối cùng chính là sự hội tụ về
lợi ích của lực lượng lãnh đạo với lợi ích của nhân dân. Nếu chỉ để bảo đảm an
ninh quốc phòng cho triều đại mới, nhà Lý sẽ duy trì kinh đô tại Hoa Lư. Tuy
nhiên, với tầm nhìn xa, Lý Công Uẩn nhận thấy mong muốn của nhân dân về một Đại
Việt phát triển thịnh trị, qua đó bảo đảm được nền độc lập lâu bền. Hoa Lư
không đáp ứng được mong muốn đó. Do đó, với chủ trương “trên kính mệnh trời,
dưới theo ý dân”, Chiếu dời đô là nhằm bảo đảm vững chắc sự cầm quyền vững bền
của nhà Lý trên cơ sở phục vụ lợi ích nhân dân, để cho “vận nước lâu dài, phong
tục giàu thịnh”. Trước kẻ địch mạnh nhất thế giới đương thời là đế chế Mông -
Nguyên, nhà Trần có hai sự lựa chọn: Hoặc đầu hàng để nhận phong vương, giữ
được lợi ích của dòng họ hoặc là quyết đánh để bảo vệ cơ đồ dân tộc dù cho có
thể hy sinh lợi ích riêng. Trong giây phút “ngàn cân treo sợi tóc”, yếu tố then
chốt để nhà Trần đưa ra quyết định cuối cùng chính là hỏi ý dân. Sự đồng lòng
của toàn dân với lòng yêu nước nồng nàn thể hiện tại Hội nghị Diên Hồng là
nguyên nhân cốt yếu để nhà Trần lãnh đạo dân tộc chiến thắng kẻ thù hung bạo
nhất đương thời. Từ một cuộc khởi nghĩa của vùng núi Thanh Hóa, Lê Lợi thu hút
được nhân tài, có được sự ủng hộ của nhân dân cả nước là bởi nêu cao ngọn cờ
yêu nước giành độc lập, tự do cho dân tộc và bởi “tướng sĩ một lòng phụ tử”.
Nguyễn Trãi nhận định: Vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của
dân quyết định; vương triều nào được lòng dân, cố kết được nhân tâm thì làm nên
nghiệp lớn; trái lại, vương triều nào đi ngược lại lòng dân thì sớm muộn sẽ đều
bị thất bại. Triều Hậu Trần thất bại là do “bỏ mặc dân khốn khổ”, “muôn dân oán
giận mà không biết, lòng người oán trách mà chẳng kinh”(1). Nhà Hồ với thành
cao hào sâu, vũ khí hiện đại, lực lượng quốc phòng hùng hậu cả về chất lượng và
số lượng, nhưng vẫn để mất nước chỉ vì “lòng dân không theo”. Mặc dù có công
không nhỏ trong việc mở rộng bờ cõi, song vì không hội tụ được lòng dân, nên
nhà Nguyễn để mất nước trong bối cảnh tương quan lực lượng vẫn còn có lợi.
Trước khi có Đảng, nhiều cuộc khởi nghĩa cứu nước đã nổ ra, mặc dù vẫn giương
cao ngọn cờ giành độc lập dân tộc, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thiết
thân của nhân dân và đều bị thất bại. Khi tiếp cận Bản sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin, Nguyễn
Ái Quốc đã nhìn thấy con đường giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Người
đã vận dụng sáng tạo và linh hoạt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về mối
quan hệ giữa giai cấp và dân tộc phù hợp hoàn cảnh cụ thể ở nước ta. Nói cách
khác, với nhận định “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”(2), Người đã kết hợp hài hòa lợi ích của giai
cấp và lợi ích dân tộc để khơi dậy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin nhấn mạnh, chỉ đứng vững trên lập
trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản thì mới giải quyết được đúng đắn
vấn đề dân tộc. Khẳng định mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.
Mác và Ph. Ăng-ghen cho rằng, nếu xóa bỏ được nạn người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ; khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp không còn nữa thì sự đối kháng giữa các dân tộc cũng sẽ mất
theo. Theo đó, C. Mác và Ph. Ăng-ghen nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp, dân tộc và nhân loại và ý nghĩa then chốt của cuộc đấu tranh giai
cấp. Với thực tiễn cách mạng nước Nga, V.I. Lê-nin đã bổ sung, phát triển và
làm phong phú thêm lý luận của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp. Trong “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”, V.I. Lê-nin
nhấn mạnh phải kết hợp chặt chẽ phong trào cách mạng ở “chính quốc” với phong
trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa; các nước làm cách mạng vô sản thành công
phải giúp đỡ cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là các nước kinh tế lạc hậu,
còn nhiều tàn tích phong kiến. Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin đã đề cập đến vấn đề giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong
tiến trình thực hiện cuộc cách mạng vô sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, hướng tới
xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, giải phóng hoàn toàn con người. Tuy nhiên,
do đặc thù của các điều kiện lịch sử - xã hội ở châu Âu, nơi mà vấn đề dân tộc
đã cơ bản được giải quyết, nên các luận điểm này chủ yếu chỉ tập trung vào vấn đề
giai cấp, mà chưa chú trọng đến vấn đề dân tộc, đặc biệt là vấn đề dân tộc
thuộc địa.
Trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế
thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin về cách mạng vô sản, trong đó
có lý luận về việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, đặc biệt là với đặc thù của một
nước thuộc địa nửa phong kiến Đông Á. Một mặt, Người thấm nhuần tư tưởng “dân
là gốc”, quyết định mọi thành bại trong lịch sử Việt Nam; mặt khác, Người hiểu
rõ đặc thù của vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam rất khác với đặc điểm lịch
sử - xã hội ở Tây Âu. Trong đó, tính dân tộc luôn nổi trội trong suốt chiều dài
lịch sử Việt Nam và mâu thuẫn chủ yếu đương thời là mâu thuẫn giữa toàn thể dân
tộc Việt Nam và thực dân Pháp. Do đó, để giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai
cấp trong điều kiện đặc thù Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích dân
tộc lên trên hết và coi đây là nguyên tắc tối cao trong quá trình lãnh đạo cách
mạng. Ngay từ khi thành lập Đảng, “Chánh cương vắn tắt của Đảng” đã chỉ rõ tiến
trình cách mạng Việt Nam gồm hai giai đoạn: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(3). Tháng 5-1941, tại Hội nghị Trung
ương lần thứ Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được”(4). Theo đó, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, là nhiệm
vụ quan trọng nhất của toàn Đảng, toàn dân. Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
giương cao ngọn cờ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, bởi lẽ, đây là nguyện
vọng lớn nhất, xuyên suốt nhất của toàn dân tộc và Người hiểu rõ chủ nghĩa xã
hội (CNXH) chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng độc lập, tự do của dân tộc.
Có thể nói, đặt vấn đề lợi ích dân tộc lên trên hết không chỉ là một sáng tạo
lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong
điều kiện đặc thù Việt Nam, mà đây còn là sự phát triển vượt bậc so với truyền
thống chính trị Việt Nam, bởi Người đã thực sự biến “dân vi bản” trở thành “dân
làm chủ”. Với tầm nhìn xa và trí tuệ siêu việt, Người nhận thức sâu sắc lợi ích
của nhân dân là cao nhất; đồng thời, chỉ có phục vụ lợi ích của nhân dân thì
Đảng mới huy động được sức mạnh toàn dân để thực hiện thành công mục tiêu cách
mạng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Do đó, Người khẳng định: “Có dân là
có tất cả”, tin ở dân, dựa vào dân, tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân
là nguyên tắc cơ bản trong chiến lược cách mạng của Người. Trọn cuộc đời mình,
Người luôn kiên định một mục đích: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(5). Đây cũng chính
là sự hòa quyện cao nhất lợi ích của dân tộc và lợi ích của giai cấp mà toàn
Đảng, toàn dân luôn hướng tới.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam là sự thống nhất giữa
lợi ích của Đảng và lợi ích của nhân dân, Đảng đã đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử,
lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua mọi thách thức to lớn nhất, giành được những
thắng lợi vẻ vang. Chỉ với khoảng 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo toàn dân
đánh đổ thực dân, phong kiến, giành chính quyền, làm nên Cách mạng Tháng Tám
long trời lở đất. Cũng với sự hội tụ giữa ý Đảng và lòng dân, dân tộc ta làm
nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu trong sự ngỡ ngàng của thực dân
Pháp, làm rung động hệ thống thực dân kiểu cũ. Đặc biệt, trước kẻ thù hung bạo
nhất của thế giới hiện đại, Đảng huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
kháng chiến chống Mỹ trường kỳ và làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, hoàn
thành công cuộc thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối. Trước những
thách thức có tính tồn vong với Đảng và đất nước, trên cơ sở đổi mới tư duy,
nhìn nhận thực tế nhu cầu của nhân dân, Đảng dũng cảm và sáng tạo thực hiện
công cuộc đổi mới với chủ trương vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân. Như vậy,
trong suốt 90 năm qua, trên cơ sở xử lý hài hòa lợi ích giai cấp với lợi ích
dân tộc, kiên trì giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng luôn thống
nhất lợi ích của mình với lợi ích của toàn dân. Chính vì vậy, Đảng đã huy động
được sức mạnh toàn dân tộc để giành được những thắng lợi vẻ vang trên các chặng
đường cách mạng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) rút ra các bài học lớn trong quá
trình Đảng lãnh đạo đất nước, trong đó nhấn mạnh: “Độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm
vững chắc cho độc lập dân tộc” và “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ
lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân”(6).
Đảng,
Nhà nước ta và cộng đồng luôn chăm lo cho cuộc sống và hạnh phúc của nhân
dân, nhất là những đối tượng yếu thế, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa (Trong ảnh: Lễ cưới tập thể 50 cặp vợ chồng khuyết tật tại Thành
phố Hồ Chí Minh, ngày 21-12-2018) _Ảnh: TTXVN
|
Để vững vàng đi lên chặng đường phía trước . Tổng kết 30 năm đổi mới,
Đảng ta cũng nhấn mạnh bài học “dân là gốc” và “phải đặt lợi ích quốc gia - dân
tộc lên trên hết”(7). Trên thực tế, sự thành công của công cuộc đổi mới không
chỉ cho thấy bài học kinh nghiệm về lợi ích quốc gia - dân tộc, mà còn khẳng
định vai trò lãnh đạo, sứ mệnh lịch sử của Đảng; đồng thời, tạo nên cơ đồ, nền
tảng để hướng tới mục tiêu mới, nâng tầm lợi ích quốc gia - dân tộc trong điều
kiện mới. Kiên trì đổi mới trong gần 35 năm qua trong bối cảnh phải đối mặt với
nhiều khó khăn, đặc biệt là đi qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế lớn của khu vực
và thế giới, để có được cơ đồ đất nước và những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử. Điều này càng có ý nghĩa khi bất ổn, suy thoái, mất an ninh,... đang
diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới.
Trên cơ sở thành tựu của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, nhân dân càng
khát khao và kỳ vọng vào mục tiêu Việt Nam phát triển hùng cường. Từ ngàn đời
nay, dân tộc ta luôn có khát vọng về hòa bình, độc lập tự do và phát triển
thịnh trị. Khát vọng dân tộc hiện nay là sự tiếp nối truyền thống của cha ông
từ ngàn xưa. Khát vọng ấy dựa trên cơ đồ đang có, khi đất nước đã trở thành
nước có thu nhập trung bình thấp, đang trên đà tăng trưởng cao, có môi trường
hòa bình, chính trị ổn định. Khát vọng ấy cũng đến từ những cơ hội lớn mà xu
thế thời đại đang tạo ra, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tuy
nhiên, khát khao và kỳ vọng cần phải dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn phù
hợp, đồng thời phải bảo đảm hòa bình, ổn định và độc lập, tự do, những giá trị
mà cả dân tộc phải hy sinh biết bao xương máu mới có được. Điều này chỉ có thể
đạt được thông qua vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng đối với tiến trình phát
triển của dân tộc.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta nhận thức sâu sắc vai trò, trách nhiệm của mình đối
với dân tộc, hiểu rõ lợi ích của nhân dân và khát vọng của dân tộc. Trong bối
cảnh đất nước còn muôn vàn khó khăn, vừa mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định phải xây dựng Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm
châu”. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang ở giai đoạn cam go nhất, Người
vẫn giữ vững mục tiêu “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Tiếp
nối di nguyện của Người, trên cơ sở phát triển nhận thức lý luận và tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta khái quát tám đặc trưng
cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm xây
dựng. Cụ thể hơn, với cơ đồ đất nước sau gần 35 năm đổi mới, Đảng xác lập định
hướng nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, trở thành
nước phát triển vào năm 2045, xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Đây thực chất là việc cụ thể hóa, hiện thực hóa khát
vọng dân tộc. Tính tất yếu của vai trò lãnh đạo của Đảng tiếp tục được chứng
minh thông qua việc Đảng bảo vệ và thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc, đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân. Vai trò của Đảng trong việc hiện thực hóa khát
vọng dân tộc là định ra và lãnh đạo dân tộc đi trên con đường phát triển có cơ
sở khoa học, hợp quy luật, vừa phù hợp với điều kiện đặc thù đất nước, vừa phù
hợp với xu thế thời đại. Trên bình diện giai cấp, lợi ích của Đảng là giữ vững
chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta và lợi ích
này nằm trong lợi ích dân tộc, hòa quyện với lợi ích dân tộc. Chính vì vậy,
Đảng khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự
lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử” và “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao”(8).
Mục tiêu của Đảng và của toàn dân tộc được đề ra và hiện thực hóa trong bối
cảnh thế giới, khu vực đang có diễn biến phức tạp, khó lường. Thế giới đang
diễn ra cuộc chuyển giao sang trật tự mới với cạnh tranh nước lớn ngày càng gia
tăng, tạo ra các hệ lụy nhiều chiều đối với nước ta. Chính trị đối ngoại cường
quyền, chủ nghĩa đơn phương đang nổi trội ở khu vực và trên thế giới. Kinh tế
thế giới chưa hoàn toàn thoát khỏi bóng đen của suy thoái, lại thấp thoáng nguy
cơ suy thoái mới do hậu quả đại dịch COVID-19. Các vấn đề toàn cầu diễn ra ngày
càng gay gắt, đặc biệt là biến đổi khí hậu, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố,
dịch bệnh,... Xu thế toàn cầu hóa, liên kết kinh tế quốc tế vấp phải những cản
trở nhất định. Chủ nghĩa dân túy, dân tộc, bảo hộ... đang tạm thời nổi trội ở
một số nước phương Tây và ngay ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đáng chú ý,
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang bước vào giai đoạn phát triển mạnh
mẽ, tác động đến mọi mặt của đời sống nhân loại. Bối cảnh này đặt ra cơ hội và
thách thức to lớn, đan xen nhau cho đất nước ta. Để vững vàng đi lên trên chặng
đường phía trước, đòi hỏi phải có được sự đồng thuận sâu sắc về lợi ích quốc
gia - dân tộc, sự hội tụ cao nhất giữa ý Đảng và lòng dân, qua đó mới có thể
huy động ở mức cao nhất sức mạnh toàn dân tộc.
Thành
phố Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ sau gần 35 năm đổi mới _Ảnh: Tư liệu
Sau
gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, qua quá
trình nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn, Đại hội XII của Đảng làm rõ thêm
nội hàm lợi ích quốc gia - dân tộc, khẳng định lợi ích quốc gia - dân tộc là
tối thượng. Theo đó, lợi ích quốc gia - dân tộc trong thời gian tới được cụ thể
hóa như sau:
Một là, bảo đảm hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ, thống nhất toàn vẹn chủ
quyền lãnh thổ. Đây là lợi ích thiêng liêng và trường tồn của dân tộc, cũng là
lợi ích của Đảng. Nhiều năm qua, Việt Nam luôn là một quốc gia hòa bình, là
điểm đến thân thiện, an toàn, là điểm sáng trong bối cảnh phức tạp của khu vực
và thế giới với nhiều đổ vỡ, đứt gãy, bất ổn trong xã hội nhiều nước. Yếu tố
then chốt để làm nên điểm sáng Việt Nam chính là sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy,
giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng phải là điều
kiện tiên quyết để bảo đảm hòa bình, ổn định, độc lập tự chủ. Lịch sử cũng đã
chứng minh một cách hùng hồn rằng, chỉ khi có sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta
mới giành được những thắng lợi to lớn, giành được độc lập, tự do và giữ vững
toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ thiêng liêng mà các bậc tiền nhân để lại. Trong
giai đoạn hiện nay và sắp tới, điều có ý nghĩa quan trọng là cần tăng cường
nhận thức, đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ, hiểu sâu sắc đường lối và
chủ trương của Đảng. Đảng không có mục tiêu nào khác ngoài bảo vệ lợi ích quốc
gia - dân tộc; đồng thời, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng chính là bảo vệ
hòa bình, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Hai là, hướng tới một Việt Nam hùng cường với mục tiêu rất cụ thể là trở thành
nước phát triển trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển vào năm 2045.
Đây là sự cụ thể hóa khát vọng phát triển của dân tộc. Tuy nhiên, Đảng cũng làm
rõ, đây là mục tiêu không đơn giản bởi lẽ trên chặng đường 10 năm và 25 năm tới
có nhiều cơ hội nhưng thách thức cũng rất to lớn. Do đó, việc huy động tối đa
nguồn lực của nhân dân, vận dụng hiệu quả bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại là rất cần thiết. Với bề dày kinh nghiệm 90 năm qua, hơn
ai hết, Đảng ta đủ bản lĩnh để lãnh đạo sự nghiệp ấy. Chính vì vậy, trong thời
gian qua, Đảng đã đẩy mạnh mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng và phát
triển bền vững, tiếp tục đề ra các chủ trương, chính sách giải phóng nguồn lực
đất nước và tăng cường hội nhập quốc tế một cách toàn diện, sâu rộng, chủ động
và tích cực. Đây là những định hướng đúng đắn, được sự ủng hộ nhiệt thành của
nhân dân để phát triển đất nước nhanh, bền vững trong các thập niên tới. Bài
học lịch sử cho thấy, khi ý Đảng và lòng dân hội tụ, nhân dân sẽ hết lòng ủng
hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khơi dậy mọi nguồn lực, giải phóng mọi
tiềm năng. Xét đến cùng, công cuộc đổi mới nói riêng và sự nghiệp đi lên CNXH
nói chung do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện về bản chất là
bắt nguồn từ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và do nhân dân thực hiện.
Ba là, nâng cao vị thế của đất nước, định vị Việt Nam trong trật tự thế giới
mới và trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư một cách vững chắc. Với
tiềm lực kinh tế, quốc phòng, với các giá trị sức mạnh mềm truyền thống và hiện
đại, với đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa đạng
hóa, Việt Nam đang ngày càng có vị trí cao hơn trên trường quốc tế. Đúng vào
dịp kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng, khởi đầu thập niên thứ ba của thế kỷ
XXI, Việt Nam đảm nhiệm vai trò kép chưa từng có, vừa là Chủ tịch ASEAN năm
2020, vừa là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ
2020 - 2021. Điều này chứng tỏ cơ đồ, vị thế xứng đáng của đất nước và là cơ
hội quý báu để tăng cường hơn nữa tầm vóc của Việt Nam trong chặng đường sắp
tới. Đáng chú ý là, bối cảnh quốc tế và khu vực đặt ra nhiều thách thức, nhưng
cũng giúp cho vị thế chiến lược của đất nước có giá trị cao hơn. Với kinh
nghiệm đối ngoại dày dặn, đường lối đối ngoại nhất quán, vừa phù hợp lợi ích
quốc gia, vừa đóng góp vào lợi ích chung của nhân loại, Đảng sẽ tiếp tục thực
hiện sứ mệnh lịch sử trong việc đáp ứng nguyện vọng và khát vọng của nhân dân
về một nước Việt Nam có vị trí đàng hoàng trên bản đồ thế giới.
Các mục tiêu trên, xét cho đến cùng, đều nhằm hướng tới lợi ích tối thượng là
tạo dựng và củng cố không gian sinh tồn và phát triển bền vững của dân tộc, bảo
đảm tốt nhất về an ninh và phát triển của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Lãnh đạo dân tộc thành công trong việc thực hiện mục tiêu trên cũng đồng thời
là sự khẳng định vai trò duy nhất không thể thay thế của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong tiến trình phát triển của dân tộc. Đồng thời, đó cũng là sự khẳng định
hùng hồn về sức sống của CNXH khoa học trong điều kiện mới, là sự đóng góp cụ
thể và giá trị của Đảng ta vào phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, độc
lập dân tộc, phát triển của nhân loại tiến bộ. Như vậy, mục tiêu này sẽ không
chỉ là sự hội tụ về lợi ích của Đảng với dân tộc, mà còn phù hợp với lợi ích
chung của nhân loại tiến bộ.
Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khát khao đưa Việt Nam sánh vai với các cường
quốc trên thế giới. Người là biểu hiện rõ ràng nhất, điển hình nhất của sự hội
tụ giữa ý Đảng và lòng dân. Người cũng để lại “chìa khóa” cho việc hiện thực
hóa khát vọng dân tộc và mục tiêu của Đảng: Đó là ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH, “mọi việc thành công bởi chữ đồng”, là “xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”. Bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam cho thấy, mỗi khi lợi ích của Đảng
trùng khớp, thống nhất với lợi ích dân tộc, với xu thế thời đại và khát vọng
của nhân loại tiến bộ, thì khi ấy Đảng ta huy động được sức mạnh vô địch, dẫn
dắt dân tộc vượt qua mọi thách thức to lớn nhất, chiến thắng mọi kẻ thù hung
bạo nhất. Trên chặng đường hướng tới tầm nhìn 2030 và 2045, một mục tiêu thể
hiện rõ nét sự hội tụ của ý Đảng và lòng dân, việc vận dụng sáng tạo bài học đó
là nhân tố then chốt, có ý nghĩa quyết định cho thành công.
------------------------
(1) Lê Văn Thắng, Nguyễn Văn Tuân (đồng chủ biên): Tư tưởng chính trị “Dân là
gốc” trong lịch sử Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.
33
(2)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr.
9
(3)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 1
(4)
Xem: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr.
113
(5)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 187
(6)http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam-2011-1528
(7)http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-1600
(8)http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam-2011-1528
Doãn Thành – BTG, theo Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam