Kỷ niệm 74 năm
ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946- 19/12/2020) Ban Tuyên giáo Huyện ủy trân trọng giới thiệu bài
viết: “Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) - Dấu mốc trọng đại trong dòng chảy
lịch sử dân tộc” của Tiến sĩ Trần Hữu Huy - Hội
Khoa học lịch sử Việt Nam đang trên trang Thông tấn xã Việt Nam.
Tháng Tám năm 1945, chớp thời cơ “ngàn năm có một”,
dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trên phạm vi toàn quốc, xóa bỏ ách cai trị của đế quốc phát xít, đồng thời lật
đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (2/9/1945) - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Phát lệnh toàn quốc kháng
chiến ở Hà Nội, tháng 12/1946. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
Nhưng ngay sau đó,
thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hòng khôi phục chế độ cai trị như
trước. Trải qua một thời gian chúng ta nhân nhượng để ra sức chuẩn bị tiềm lực
mọi mặt, ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đây là sự kiện quan
trọng, là bước chuyển của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam sang thời kỳ
mới.
Sách lược
hòa hoãn và quá trình chuẩn bị tiềm lực cho kháng chiến
Sau khi ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước tình thế hết sức hiểm
nghèo. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, hơn 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch tràn vào
làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng nuôi dưỡng mưu đồ tiêu diệt Đảng
Cộng sản Đông Dương, lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập chính quyền tay
sai. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân đội Anh vào làm nhiệm vụ giải giáp quân
đội Nhật, nhưng thực chất là “dọn đường”, giúp đỡ thực dân Pháp trở lại xâm
lược Việt Nam.
Ngày 23/9/1945,
quân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, tăng cường sử dụng biện pháp quân sự mở
rộng phạm vi chiếm đóng toàn Nam Bộ. Trong khi giặc ngoại xâm đang ồ ạt tràn
vào, tiềm lực mọi mặt của Nhà nước cách mạng lại chưa được củng cố: ngân sách
cạn kiệt; nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề; sản xuất đình trệ, nạn
đói chưa được khắc phục; hơn 90 % dân số chưa biết chữ; những tệ nạn của chế độ
cũ để lại (mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút...) còn phổ biến. Tất
cả những khó khăn chồng chất trên đã đặt nước Việt Nam vào tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”.
Tuy nhiên, đất
nước cũng có những thuận lợi cơ bản: Nhân dân đã giành quyền làm chủ và bước
đầu được hưởng những quyền lợi do chế độ mới đem lại nên rất quyết tâm bảo vệ
thành quả cách mạng. Phong trào giải phóng dân tộc dâng cao ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đang hình
thành. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư
bản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị “quyết tử” của Hà Nội đầu
năm 1947. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
Trên cơ sở phân
tích rõ những thuận lợi và khó khăn, Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ quan
trọng trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống của nhân dân, tích cực chuẩn bị mọi mặt
cho kháng chiến lâu dài.
Chấp hành chủ
trương của Trung ương Đảng đề ra, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện
sách lược hòa hoãn linh hoạt, mềm dẻo nhưng kiên quyết đối với cả thực dân Pháp
và Tưởng Giới Thạch. Từ ngày 23/9/1945 đến tháng 2/1946, ở miền Bắc, ta chấp
nhận nhượng bộ cho quân đội Tưởng Giới Thạch và các phần tử tay sai của chúng
một số quyền lợi chính trị, kinh tế như: Đặc cách cho một số ghế bộ trưởng
trong chính phủ và 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử; nhận cung cấp một
phần lương thực, thực phẩm; nhận tiêu tiền “quan kim”, “quốc tệ” của quân
Tưởng...
Mặt khác, Trung
ương Đảng chỉ đạo quân dân ta ở miền Nam kiên quyết kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược. Một số đội quân chủ lực “Nam tiến” đã được Đảng và Chính phủ ta
điều động từ miền Bắc vào sát cánh cùng đồng bào miền Nam đánh giặc cứu nước.
Đến tháng 2/1946, thực dân Pháp đã ký hiệp ước thỏa hiệp thay thế quân Tưởng
Giới Thạch ra miền Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, chuẩn bị mở rộng
cuộc chiến tranh xâm lược trên quy mô cả nước. Trước bối cảnh lịch sử mới, từ
tháng 3/1946 đến tháng 11/1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Hiệp
định sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) nhượng bộ cho quân Pháp một số
quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa nhằm nhanh chóng đuổi 20 vạn quân Tưởng
về nước, kéo dài thêm thời gian hòa hoãn.
Ban
chỉ huy Trung đoàn Thủ đô (sau thuộc Sư đoàn 308-Đại đoàn Quân Tiên phong) bàn
kế hoạch tác chiến trong những ngày Toàn quốc kháng chiến. Sau 9 năm, cũng
chính những người lính của Trung đoàn đã trở về tiếp quản Thủ đô giải phóng
(10/10/1954) trong tư thế những người chiến thắng. Ảnh: Tư liệu/TTXVN
Tranh thủ thời
gian hòa bình, nhân dân Việt Nam ra sức củng cố tiềm lực mọi mặt, chuẩn bị lực
lượng bước vào cuộc kháng chiến với Pháp. Việc chăm lo xây dựng quân đội cách
mạng làm nòng cốt cho kháng chiến được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm. Ngày 22/5/1946, Chính phủ ra sắc lệnh quy định Vệ quốc đoàn
(còn gọi Vệ quốc quân) chính thức trở thành Quân đội quốc gia nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Ngoài ra, cách mạng còn có gần một triệu hội viên thuộc lực lượng
dân quân tự vệ khắp cả nước, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh
trong những chặng đường về sau.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946) - bước chuyển lớn của cách
mạng Việt Nam
Cuối năm 1946, sau
khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tiếp có những hành động khiêu khích,
công khai mưu đồ xâm lược, thiết lập lại nền cai trị thuộc địa đối với nước ta.
Tháng 11/1946, chúng ngang nhiên đưa lực lượng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn.
Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn
phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường, chiếm một số trụ sở của Chính phủ
cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp liên tiếp gửi tối hậu
thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ,
giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.
Trước âm mưu, hành
động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm
súng chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 18 và
19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông),
ra quyết định lịch sử: phát động toàn quốc kháng chiến. Ngay đêm 19/12/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi đồng
bào cả nước kháng chiến, khẳng định rõ:
“Chúng ta muốn
hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân
Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng
ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ!
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải
đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm
thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước”.

Ngày 26/9/1945, tại ga Hàng Cỏ, đoàn quân Nam tiến đầu tiên rời Hà
Nội vào chi viện cho miền Nam, mở đầu cho phong trào Nam tiến, cả nước sát cánh
cùng đồng bào Nam bộ và Nam Trung bộ đánh giặc cứu nước. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.
Chấp hành mệnh
lệnh của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy, quân dân ta ở các tỉnh bắc vĩ
tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng. Chiến sự diễn ra rất quyết
liệt, đặc biệt là trong các thành phố lớn. Tại Thủ đô Hà Nội, khoảng 20 giờ
ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cả thành phố tắt điện.
Đó là hiệu lệnh chiến đấu toàn thành, mở đầu kháng chiến toàn quốc. Dù quân ta
trang bị vũ khí thô sơ chống lại kẻ địch tinh nhuệ trang bị vũ khí hiện đại,
nhưng với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, chiến sĩ ta có sự hỗ trợ
tích cực của nhân dân vẫn ngày đêm kiên cường bám trụ, giành giật với địch từng
căn nhà, từng góc phố. Nhiều trận đánh diễn ra quyết liệt tại Bắc Bộ phủ, chợ
Đồng Xuân, nhà bưu điện... diệt nhiều địch, gây hoang mang cho kẻ thù.
Cùng với Hà Nội,
quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam anh dũng đứng lên chống thực dân
Pháp xâm lược. Cả dân tộc chung sức đồng lòng đánh giặc cứu nước với ý chí sục
sôi, niềm tin tất thắng. Đến tháng 2/1947, khi địch tăng viện phá vòng vây, lực
lượng ta được lệnh rút về hậu phương, cuộc chiến đấu trong các đô thị tạm thời
kết thúc để chuyển sang giai đoạn chiến đấu mới.

Đêm 17, rạng sáng 18/2/1947, lực lượng của Trung đoàn Thủ đô chia
thành từng đơn vị nhỏ cùng nhân dân Liên khu phố I lặng lẽ đi dưới gầm cầu Long
Biên, vượt sông Hồng, sông Đuống, bí mật vượt qua vòng vây an toàn lên chiến
khu, kết thúc 60 ngày đêm giam chân quân Pháp trong lòng Hà Nội. Ảnh: Tư
liệu/TTXVN
Trải qua gần hai
tháng liên tục chiến đấu, quân dân ta giành thắng lợi quan trọng: thực hiện
tiêu hao, tiêu diệt, giam chân địch trong thành phố, làm thất bại kế hoạch
“đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; tạo điều kiện di chuyển các cơ
quan, kho tàng, vật chất (ta đã vận chuyển được gần 40.000 tấn máy móc, nguyên
liệu ra vùng căn cứ); tranh thủ thời gian tổ chức cho hàng chục vạn nhân dân
tản cư về vùng căn cứ xây dựng thế trận kháng chiến lâu dài.
74 năm đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về tầm vóc cũng như giá
trị lịch sử ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946). Sự kiện đã góp phần khẳng
định đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo
của Đảng Cộng sản Đông Dương trong cuộc đụng đầu lịch sử với thực dân Pháp. Mặt
khác, thắng lợi của toàn quốc kháng chiến là thắng lợi đầu tiên trong cuộc
trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc
(1945-1975), tạo cơ sở vững vàng cho ta giành được thành quả cách mạng trong
những chặng đường tiếp theo.
Phát huy tinh thần
toàn quốc kháng chiến trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm:
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng; tranh
thủ thời cơ thuận lợi, khắc phục những khó khăn, thách thức để đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững, tạo tiềm lực to lớn cho đất
nước; không ngừng chăm lo củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kiên định mục
tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nêu cao cảnh
giác, kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của các
thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Doãn Thành - BTG
- theo TTXVN