Trần Hưng Đạo, tên thật là Trần Quốc Tuấn (1230 -
1300), con của An Sinh vương Trần Liễu, cháu ruột vua Trần Thái Tông. Ông là một
vị anh hùng dân tộc toàn tài, tham gia cả ba lần đánh bại quân Nguyên Mông xâm
lược nước ta. Trong lần kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1258) và lần
thứ ba (1287), Ông được cử làm Tiết chế thống lĩnh toàn quân đánh bại hoàn toàn
quân Mông cổ. Ông là tác giả của “Hịch tướng sĩ” nổi tiếng và sách “Binh thư
yếu lược”. Khi Ông mất được vua Trần ban tước hiệu Hưng Đạo vương. Ông là một
trong 10 vị tướng xuất sắc nhất thế giới. Không chỉ là một vị tướng tài, một vị anh hùng dân tộc
lỗi lạc, kiệt xuất, Ông còn là một nhà
chính trị, văn hóa lớn được toàn dân tộc ngưỡng vọng thờ phụng ở nhiều nơi.
Nhân dân Bình Sơn - Long Thành đã lập
đền thờ Ông tại ấp 4, khói hương không dứt và hàng năm vào ngày 18 - 20/8 âm lịch, lễ giỗ Trần Hưng Đạo
được tổ chức rất long trọng theo nghi thức thờ Thần truyền thống của dân
tộc.

SỰ HÌNH
THÀNH ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN CAO SU BÌNH SƠN
Sau khi hoàn thành việc chiếm đóng Nam kỳ, trước những
lợi nhuận lớn của việc khai thác cây cao su, tư bản thực dân Pháp đã thành lập
hàng loạt đồn điền cao su ở Nam kỳ. Tại tỉnh Biên Hòa (nay là tỉnh Đồng Nai),
tư bản thực dân Pháp thành lập đồn điền cao su Suzannal (Dầu Giây) vào năm
1904, đây là đồn điền cao su đầu tiên ở Đông Nam bộ, tiếp theo một loạt các đồn
điền cao su khác được thành lập: An Lộc, Bình Lộc, Hàng Gòn, Túc Trưng….
Năm 1923, Công ty đồn điền cao su Đất Đỏ (Socie téde
Plantation de terrouge - SPTR) đến thăm dò vùng đất rừng Bình Sơn (Long Thành)
để lập kế hoạch khai hoang trồng cao su và thành lập đồn điền cao su Bình Sơn. Để
đáp ứng nhu cầu khai hoang, mở rộng đồn điền, ngoài việc sử dụng nguồn nhân lực
tại chỗ là những người dân bản địa, đồng bào dân tộc thiểu số: Chơ ro, Xtiêng,
Khơme…, Công ty SPTR phải mộ thêm dân phu từ miền Bắc, miền Trung vào làm việc.
Đợt mộ phu đầu tiên vào năm 1926 với số dân phu là 530 người được mộ chủ yếu từ
các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam. Họ là những nông dân nghèo khổ, chịu sự ức
hiếp hà khắc của chế độ phong kiến nên chấp nhận rời quê hương vào Nam mong có
cuộc sống khá hơn. Nhưng cuộc sống của người công tra cao su ở vùng đất mới
trái ngược hoàn toàn với những lời hứa hẹn của bọn mộ phu. Người phu cao su
không được gọi bằng cái tên cha mẹ đặt mà gắn với một con số để gọi như: Ông
tám Mốt (81), ông Bốn Chục (40), bà Bảy sáu (76)….Họ gần như mất đi tất cả
quyền của con người, sống tập trung trong các căn nhà tạm bợ, nắng thì nóng như
thiêu như đốt, mưa thì dột tứ bề; ăn cơm thì gạo mục cá thối. Họ phải làm việc
quần quật từ 12 đến 16 giờ/ngày, lại thường bị bọn cai, xu, sếp tra tấn, đánh
đập, hành hạ tàn nhẫn bởi rất nhiều những lý do vô cớ, đúng với câu ca dao ai
oán “cao su đi dễ khó về, khi đi trai
tráng khi về bủng beo”. Cuộc sống của người phu công tra khổ trăm bề đến
mức không thể chịu đựng được, một số đã tìm cách bỏ trốn nhưng rồi cũng phải bỏ
xác nơi rừng thiêng nước độc, số còn lại họ phải tự vùng lên đấu tranh với chủ đồn
điền đòi quyền dân sinh, dân chủ, đòi được thực hiện theo đúng cam kết trong
hợp đồng. Cuộc đấu tranh của công nhân cao su Bình Sơn đã từng bước giành được
thắng lợi, cuộc sống đã phần nào được cải thiện và dưới sự lãnh đạo của Đảng họ
đã làm chủ được đồn điền trong Cách mạng Tháng Tám 1945, góp phần cùng với công
nhân cao su các đốn điền trong tỉnh và nhân dân miền Nam đánh đuổi thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa
xuân 1975.

LỊCH SỬ HÌNH
THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐỀN THỜ TRẦN HƯNG ĐẠO
Buổi đầu rời quê hương miền Bắc vào đất Bình Sơn làm
phu cao su, những người nông dân nghèo khổ không có của cải gì đáng giá ngoài
vài bộ quần áo và một số đồ dùng sinh hoạt. Tuy nhiên, với quan niệm tín ngưỡng
sẽ được ông bà, tổ tiên và các vị thần thánh nơi cố hương phù trợ cho mình ở
vùng đất mới nên họ đã mang theo bản sao Sắc thần của vua Tự Đức phong cho
Thượng đẳng thần Trần Hưng Đạo ở đền Bảo Lộc (Nam Hà) vào nơi ở mới Bình Sơn.

Nhà bia ghi tên liệt sĩ
Tại đồn điền cao su Bình Sơn nói riêng và các đồn điền
cao su ở Nam kỳ nói chung, nhằm mị dân, mua chuộc, ép buộc và mưu đồ “đồng hóa
về tín ngưỡng” buộc những người phu công tra suốt đời phải làm việc cho chúng,
tư bản thực dân Pháp đã cho xây dựng nhiều nhà thờ, lôi kéo dụ dỗ những người
nông phu theo đạo Thiên Chúa nhằm gắn chặt cuộc đời họ với đồn điền để bóc lột
sức lao động đến tận xương tủy, làm giàu cho chúng. Nhưng những người phu cao
su Bình Sơn một lòng yêu nước, kiên quyết bảo vệ nguồn gốc tổ tiên, giữ gìn tín
ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, vào cuối năm 1926, dân phu Bình Sơn đã đệ đơn (kèm
theo bản sao chép Sắc thần đem từ quê hương vào) lên chủ đồn điền xin dựng một
ngôi đền để thờ Trần Hưng Đạo. Trước nguyện vọng chính đáng của người phu cao
su, tư bản thực dân Pháp đã phải đồng ý cho họ dựng một ngôi đền nhỏ bằng
tranh, tre ở nơi cư trú. Trải qua thời gian tồn tại, ngôi đền đã bị xuống cấp.
Năm 1930, Ban Trị sự đền và những người phu cao su đã đóng góp công của sửa lại
ngôi đền: thay vách gỗ bằng tường gạch, thay mái lá bằng ngói vẩy cá, dựng nhà
võ ca ở phía trước Chánh điện. Năm 1939, xây một ngôi miếu nhỏ ở bên phải chánh
điện của ngôi đền để thờ Mẫu Liễu Hạnh;
năm 1997, tiếp tục trùng tu, sửa chữa: xây lại tường, lợp lại mái bằng ngói vẩy
cá và tôn thiếc giả ngói; xây cổng, làm
hàng rào kẽm gai bao quanh ngôi đền. Năm 1998, nhân kỷ niệm 300 năm hình thành
và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai, Ban Trị sự đền và nhân dân Bình Sơn
thực hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” đã xây Nhà
bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ của xã Bình Sơn hi sinh trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ bảo vệ Tổ quốc trong khuôn viên đền.
Từ đó đến nay, ngôi đền luôn được nhân dân Bình Sơn tiến hành trùng tu, tôn
tạo, chăm sóc, bảo vệ và giữ gìn ngày càng khang trang, sạch đẹp.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, tại đền Bình
Sơn đã diễn ra nhiều sự kiện cách mạng. Đây là địa điểm để nhân dân địa phương đóng
góp lương thực, thực phẩm, thuốc men ủng họ cho cách mạng dưới danh nghĩa là
cúng đền và là địa điểm gặp gỡ, trao đổi công tác của cán bộ cách mạng ở địa
phương, là nơi các đồng chí của Ban Cán sự cao su Biên Hòa mở “tòa án bí mật”
xét xử Cai Bền - kẻ có con đi lính ngụy và có tư tưởng chống phá cách mạng…Việc
xét xử này đã có ảnh hưởng rất lớn đến phong trào cách mạng và răn đe những
phần tử chống phá cách mạng ở Bình Sơn.

Với những giá trị lịch sử nêu trên, đền thờ Trần Hưng
Đạo đã được UBND tỉnh Đồng Nai xếp hạng là di tích lịch sử (Quyết định số
3604/QĐ-UBND ngày 16/12/2010). Lễ rước và trao bằng công nhận di tích sẽ được
tổ chức long trọng vào ngày 29/01/2011 tại đền thờ Trần Hưng Đạo.