Trải qua 75 ngày đàm phán gay go, căng thẳng, với 31 phiên họp,
cùng rất nhiều cuộc gặp, tiếp xúc song phương và đa phương bên lề Hội nghị,
cuối cùng các bên tham gia Hội nghị, trừ Mỹ, đã thỏa thuận và ký kết được các
văn bản.
Kết quả của Hội nghị Giơ-ne-vơ
1954 về hòa bình ở Việt Nam, Đông Dương không đáp
ứng được tất cả các yêu cầu và mục tiêu của Trung ương Đảng và Chính phủ đề ra
lúc ban đầu như phân chia giới tuyến, thời hạn tổng tuyển cử, vấn đề vùng tập
kết của các lực lượng kháng chiến Lào Itsala và Khmer Itsarak... nhưng nó phản
ánh được tương quan lực lượng giữa Ta và đối phương trong hoàn cảnh lúc đó, cả
trên chiến trường lẫn trên bàn đàm phán.
Các
văn bản được ký kết tại Hội nghị, gồm:
- Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự
ở Việt Nam, Lào, Campuchia;
- Một bản tuyên bố cuối cùng
của Hội nghị;
- Hai bản tuyên bố riêng của
Đoàn Mỹ và Đoàn Pháp ngày 21/7/1954;
- Các công hàm trao đổi giữa
Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Pháp Mendes France.
Thỏa thuận chung cho ba nước Việt Nam,
Lào, Campuchia:
- Công nhận và tôn trọng các
quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương: độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi
nước.
- Đình chỉ chiến sự trên toàn
cõi Đông Dương.
- Pháp rút quân khỏi lãnh thổ
ba nước. Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Lào và Campuchia.
- Không có căn cứ nước ngoài và không liên minh quân sự với nước
ngoài.
- Tổng tuyển cử ở mỗi nước.
- Không trả thù những người hợp
tác với đối phương.
- Trao trả tù binh và người bị
giam giữ.
- Thành lập Ủy ban liên hợp
kiểm soát và giám sát quốc tế.
Thỏa thuận riêng với mỗi nước. Trong đó,
các Hiệp định liên quan đến Việt Nam, gồm 4 nội dung chính:
- Những điều khoản về đình chỉ
chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển quân được hai bên thực
hiện trong thời hạn 300 ngày; chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường
dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên tham chiến.
- Những điều khoản về duy trì và
củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và
khu phi quân sự (Sông Bến Hải), vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời,
không coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, cấm tăng viện nhân viên quân sự,
bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam, cấm xây dựng căn cứ
quân sự mới, cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào, cấm sử
dụng mỗi miền để phục vụ một chính sách quân sự nào.
- Những điều khoản chính trị:
Vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, Hiệp thương hai miền vào tháng
7/1955, tổng tuyển cử 7/1956, tự do chọn vùng sinh sống trong khi chờ đợi,
không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với đối
phương trong thời gian chiến tranh.
- Những điều khoản quy định
việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban kiểm soát liên hợp, Ủy ban giám sát
quốc tế trung lập.
(Ảnh
internet)
Nguyên nhân thắng lợi trong việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ
chiến sự ở Việt Nam
Thắng lợi trong việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam là thắng
lợi vẻ vang của nền ngoại giao cách mạng non trẻ của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á - Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nguyên nhân hàng đầu quyết định
thắng lợi cơ bản trên là do đường lối chính trị, đường lối quân sự và đường lối
đối ngoại đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt quân đội và nhân dân ta đã đoàn kết nhất trí, chiến đấu anh dũng suốt 9 năm, giành thắng lợi của cuộc tổng tiến công chiến
lược Đông xuân
1953-1954 với đỉnh cao là chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, buộc bọn đế quốc, thực dân phải ngồi vào bàn Hội nghị, cam kết
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Lào và Campuchia.
Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết dân tộc, kết hợp sức mạnh quân sự, chính trị và sức mạnh ngoại giao tạo nên
sức mạnh tổng hợp và thế chủ động trên bàn đàm phán, ký kết Hiệp định
Giơ-ne-vơ.
Cuộc đấu tranh
của nhân dân ta là chính nghĩa, được bạn bè quốc tế và các lực
lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ, giúp đỡ, cổ vũ, góp phần tạo
nên sức mạnh của thời đại cho thắng lợi của Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954.
Đội ngũ cán bộ ngoại giao có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức
được lợi ích và mục tiêu của dân tộc, có hiểu biết sâu sắc và trình độ học vấn
uyên bác, linh hoạt, chủ động, sáng tạo, tự chủ trên bàn đàm phán, biết phân
tích đánh giá tình hình chính xác và đã đạt được kết quả to lớn trong hoàn cảnh
lịch sử lúc đó.
Ý nghĩa Hiệp định Giơ- ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam
- Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã chấm
dứt ách đô hộ kéo dài hàng thế kỷ của thực dân Pháp ở Việt Nam và trên toàn cõi
Đông Dương. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trở thành
hậu phương vững mạnh cho nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc sau này.
- Hiệp định này là một giải
pháp đồng bộ về chính trị và quân sự nhằm kết thúc chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam. Nó vượt ra ngoài ý đồ ban đầu của các nước lớn định giới hạn
Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia trong khuôn
khổ một Hiệp định ngừng bắn đơn thuần, kiểu Triều Tiên. Về mặt chính trị và
pháp lý, các nước tham gia Hội nghị công nhận và cam kết tôn trọng các quyền
dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia là chủ quyền, độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
- Hiệp định đã ghi nhận thắng lợi to lớn có tính bước ngoặt của
cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do của dân tộc.
Nó xác nhận trên phạm vi quốc tế sự thất bại của cuộc chiến tranh xâm lược quy
mô lớn của một đế quốc hùng mạnh, đánh dấu sự mở đầu cho sự sụp đổ hoàn toàn
của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ trên quy mô toàn cần, góp phần
quan trọng cổ vũ cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc thuộc địa.
- Hiệp định là một thắng lợi
ngoại giao quan trọng trong cuộc đàm phán quốc tế đa phương đầu tiên mà Việt
Nam tham gia.
- Hiệp định đã tạo nên một cơ
sở pháp lý cho cuộc đấu tranh sau này đặc biệt là trong cuộc đàm phán với Mỹ
tại Hội nghị Paris về Việt Nam.
Những
bài học kinh nghiệm từ quá trình đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình
chỉ chiến sự ở Việt Nam
Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ
chiến sự ở Việt Nam đã đi vào lịch sử, cùng với Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và
Hiệp định Paris 1973 đã trở thành 3 văn kiện ngoại giao quan trọng nhất trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc ta. Việc đàm phán, ký kết Hiệp định đã để lại những kinh
nghiệm quý báu trong quá trình đàm phán tiếp theo tại Hiệp định Paris và những
bài học kinh nghiệm mang tính thời sự cho công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tiến trình hội nhập. Các bài học kinh nghiệm đó là:
Kiên trì bảo vệ lợi ích quốc
gia, dân tộc; kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Trong bối cảnh
Hội nghị Giơ-ne-vơ được tổ chức theo sáng kiến của các nước và chịu tác động
của các nước lớn với những mục tiêu và lợi ích khác nhau, song chúng ta vẫn
kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ thể hiện trong việc xác định mục
tiêu, nguyên tắc đàm phán nhưng linh hoạt về sách lược và bước đi, chúng ta
phải làm tất cả những gì có thể làm để đạt được lợi ích của mình. Lợi ích cao
nhất của chúng ta lúc đó tại Hội nghị Giơ-ne-vơ là buộc đối phương phải công
nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và chúng ta đã đạt được.
Đánh giá và xử lý đúng tình hình, những yêu cầu và lợi
ích của các nước có liên quan. Trong quá trình đàm phán
tại Hội nghị, nhờ sự phân tích đánh giá tình hình chính xác, kịp thời, chúng ta
đã biết nắm bắt những “thời cơ cách mạng” và đưa ra những đường lối, chủ
trương, chính sách đối ngoại đúng đắn, sáng suốt nên đã đạt được những kết quả
to lớn tại Hội nghị. Tuy nhiên, lúc đó, các
phương tiện truyền thông, báo chí chưa thực sự phát triển, nguồn thông tin còn
hạn chế, hơn nữa chúng ta chưa có
nghiên cứu chiến lược, chưa hiểu hết ý đồ của các nước lớn, Liên Xô và Trung
Quốc nên thắng lợi của chúng ta chưa trọn vẹn.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của thời đại; tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, các lực lượng
yêu chuộng hòa bình và công lý. Trước, trong và sau Hội nghị Giơ-ne-vơ và trong
suốt quá trình đấu tranh, giành độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, chúng ta luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh chính nghĩa, thái độ thiện chí
của mình, vạch rõ âm mưu của địch và nhờ đó chúng ta đã tranh thủ được sự ủng
hộ của các lực lượng hòa bình dân chủ trên thế giới, tác động tích cực tới
phong trào phản chiến của nhân dân Pháp, tạo thuận lợi cho cuộc đấu tranh của
ta tại Hội nghị giành thắng lợi.
Tăng cường đối thoại và hợp
tác, sử dụng các biện pháp hòa bình giải quyết các vấn đề xung đột trong quan
hệ quốc tế, phù hợp với luật pháp quốc tế, giữ gìn môi trường hòa bình. Trước
tình hình thế giới đã xuất hiện xu thế các nước lớn bắt đầu đi vào hòa hoãn,
chủ trương giải quyết hòa bình các cuộc chiến tranh khu vực; cùng với quyết
định mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, Hồ Chí Minh cùng Đảng
Lao động Việt Nam chủ trương dùng biện pháp đàm phán hoà bình để kết thúc chiến
tranh. Thiện chí hoà bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam mở hướng đi tới
một cuộc đàm phán để kết thúc chiến tranh. Các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa đã giải quyết hoà bình cuộc chiến tranh Đông Dương, phá khung Chiến
tranh lạnh, phá được khuôn mẫu hai phe đối lập nhau.
Tăng cường tiềm lực của đất
nước, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,
duy trì hòa bình, ổn định cùng phát triển. Chúng ta sẽ không giành thể thắng
lợi trên bàn đàm phán nếu không có thắng lợi trên chiến trường. Trước ngày
kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nỗ lực
cứu vãn hoà bình, dùng biện pháp ngoại giao để giải quyết cuộc xung đột với
Pháp nhưng không mang lại kết quả vì thực dân Pháp đang hăm hở giành thắng lợi
bằng quân sự. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là
chiến dịch Điện Biên Phủ của quân đội và nhân dân Việt Nam thắng lợi có ý nghĩa
trọng đại và tác động to lớn đến xu hướng diễn biến và thành công của Hội nghị
Giơ-ne-vơ.
HC-
BTGHU trích nguồn BTG TW