Giai đoạn 1960 - 1964: Những năm đầu xây dựng tuyến
chi viện chiến lược. Ở miền Nam, sau khi có Nghị quyết 15
của Trung ương Đảng, phong trào cách mạng đã có bước phát triển mạnh mẽ. Trước
tình hình đó, Bộ Chính trị chủ trương đẩy mạnh hoạt động chi viện cho chiến
trường. Vị trí, vai trò của Đoàn 559 ngày càng quan trọng, nhiệm vụ của Đoàn
ngày càng nặng nề. Trong khi đó, địch ngày càng tăng cường lùng sục, đánh phá
ác liệt hơn. Ngày 01/9/1960, Hội nghị Ban cán sự Đoàn 559 ra nghị quyết nêu
rõ: “Phải quyết tâm tự lực cánh sinh, tranh thủ sử dụng đi đường cũ,
đồng thời tiếp tục soi đường mới để làm đường dự bị”.
Tháng
11/1960, Bộ Tổng Tham mưu quyết định thành lập Đoàn 70, lực lượng nòng cốt là
Tiểu đoàn 301. Xuất phát từ tình hình thực tế, phương thức vận chuyển của Đoàn
được thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh. Để khắc phục tình trạng bị động do ta
chủ trương lánh dân, Đoàn nhanh chóng chuyển đổi phương thức hoạt động mới, từ
phòng tránh bị động tiến tới phòng tránh tích cực với phương châm: Đánh
địch mà đi, đánh địch để vận chuyển.
Trong
khi tuyến giao liên vận tải quân sự từ miền Bắc được mở dọc theo dãy Trường Sơn
tiến dần vào phía Nam thì ở Trung Bộ, các con đường giao liên được mở tiếp vào
các khu căn cứ Tây Nguyên và từ miền Đông Nam Bộ các đội vũ trang tuyên truyền
cũng tiến hành soi đường ra Bắc. Đến cuối năm 1960, ta đã thiết lập được tuyến
giao liên vận tải từ Trung Bộ vào miền Đông Nam Bộ, tuyến giao liên quân sự
Trường Sơn thật sự trở thành cầu nối giữa miền Bắc với các căn cứ miền Nam.
Trong
mùa khô 1960 - 1961, Đoàn 559 đã vận chuyển giao cho chiến trường được 30 tấn
vũ khí, bảo đảm lương thực cho gần 2.000 cán bộ vào chiến trường, có chân hàng
dự trữ cho các đợt vận chuyển tiếp theo. Đoàn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen
ngợi: “Đoàn 559 bước đầu làm được vậy là giỏi, nhưng cần nghiên cứu tổ
chức làm tốt hơn nữa”.
Ngày
31/1/1961, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự 5 năm (1961 - 1965)
và phương hướng, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Trong đó có nhiệm
vụ: Mở rộng đường hành lang vận chuyển Bắc - Nam, cả đường bộ và đường biển...
nâng dần quy mô và khối lượng tiếp tế vận chuyển phương tiện vũ khí, cung cấp
tài chính từ miền Bắc vào miền Nam. Trước tình hình địch đánh phá ngày càng ác
liệt, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào nhất trí với đề nghị của ta mở
tuyến đường vận tải trên đất Bạn, đồng thời cũng đề nghị dùng đường đó để vận
chuyển một số nhu cầu thiết yếu của Bạn tới Nam Lào, cùng Bạn mở rộng vùng giải
phóng ở khu vực này. Ngày 14/6/1961, Đoàn 559 chính thức bước vào hoạt động
trên tuyến Tây Trường Sơn.
Ngày
23/10/1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 96/QP phát triển Đoàn 559 tương
đương cấp sư đoàn, quân số 6.000 người. Không chỉ phát triển về số lượng, Đoàn
559 đã có bước phát triển quan trọng về chất lượng. Các chiến sĩ Trường Sơn vừa
là người lính vận tải, vừa là chiến sĩ bộ binh, công binh, vừa công tác, vừa
chiến đấu.
Bằng
những nỗ lực to lớn của Đoàn 559, hệ thống đường Hồ Chí Minh có sự phát triển
nhanh chóng. Đến cuối năm 1964, bộ đội tuyến 559 cùng các đơn vị vũ trang,
thanh niên xung phong và giao thông Quân khu 4 đã xây dựng được tuyến hành lang
vận tải gồm nhiều trục đường gùi thồ và một trục đường cơ giới ở Tây Trường
Sơn, thực hiện được chiến dịch vận chuyển quy mô lớn mà Quân ủy Trung ương
giao. Về lực lượng, sau hơn 5 năm hoạt động, quân số của Đoàn 559 lên đến 8.000
người.
Kết
thúc năm 1964, Đoàn 559 đã đưa đón quân vào Khu 5: 15.896 người, Nam Bộ: 1.571
người.
Giai đoạn 1965 - 1968: Tuyến vận tải cơ giới đường
Hồ Chí Minh vươn sâu chi viện cho chiến
trường miền Nam đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Ngày 03/4/1965, Thường trực Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết
tăng cường nhiệm vụ và tổ chức của Đoàn 559: Nhiệm vụ chủ yếu của Đoàn 559 là
mở đường và tổ chức vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam và Hạ Lào;
đồng thời có nhiệm vụ bảo đảm vật chất và an toàn cho các lực lượng hành quân,
bảo vệ hành lang chống địch tập kích bằng đường bộ và đường không, phối hợp và
giúp đỡ các địa phương củng cố vùng giải phóng ở dọc hành lang.
Bộ
Tư lệnh 559 có ba lực lượng chính là: lực lượng mở đường mới, giữ gìn và sửa
chữa đường cũ; lực lượng vận chuyển và giữ kho; lực lượng bảo vệ. Ngoài ra còn
có các lực lượng bảo đảm khác như: thông tin, quân y, sửa chữa... Về tổ
chức, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh của Đoàn tương đương cấp quân khu trực thuộc
Quân ủy Trung ương.
Quyết
định trên đánh dấu bước phát triển mới của Đoàn 559, từ vận tải thô sơ chuyển
sang vận tải cơ giới; từ quy mô cấp sư đoàn lên quy mô cấp quân khu với những
nhiệm vụ chiến lược to lớn, vô cùng khó khăn, phức tạp trên một địa bàn rộng.
Để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tháng 2/1966, Bộ Tư lệnh 559 giải thể các tuyến, tổ
chức thành 8 binh trạm; mỗi binh trạm phụ trách một khu vực nhất định và đều có
một tiểu đoàn công binh.
Đầu năm 1967, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên được Bộ Quốc phòng điều làm
Tư lệnh Đoàn 559 kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương. Với tác phong sâu
sát, cụ thể, sau khi đã khảo sát nắm chắc tình hình trên toàn tuyến, đồng chí
đã cùng Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh có nhiều quyết định sáng tạo nhằm đổi
mới phương châm, phương thức hoạt động, xây dựng vững chắc thế trận Trường Sơn.
Bắt đầu từ mùa khô 1966 - 1967, đường giao liên tách khỏi đường ô
tô; hệ thống cầu đường được đổi mới một cách cơ bản trong thế trận hiệp đồng
chiến đấu giữa các quân, binh chủng trên toàn tuyến; nhờ đó công tác vận chuyển
chi viện cho chiến trường miền Nam tăng gấp 25 lần, giao cho bạn Lào tăng gấp
12 lần so với năm 1966, đưa bộ đội vào chiến trường tăng gấp 2,5 lần so với chỉ
tiêu Bộ giao.
Cuối
năm 1967, Đoàn 559 đã xây dựng được một mạng đường vững chắc với 2.959km đường
ô tô bao gồm các trục dọc chính, trục dọc phụ, đường ngang, đường vòng tránh và
đường vào kho lấy hàng. Đây là một thế trận cầu đường có thể hỗ trợ, bổ sung
cho nhau. Sự phát triển của hệ thống đường Hồ Chí Minh đã phục vụ đắc lực cho
công tác vận chuyển chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân
1968.
Năm
1968, Đoàn 559 đã có 25 binh trạm, 23 trung đoàn; quân số lên đến 80.000 người.
Giai đoạn 1969 - 1972: Mở rộng đường Hồ Chí Minh, góp
phần đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế
quốc Mỹ. Mùa khô 1968 - 1969, hệ thống đường
vận chuyển chiến lược Trường Sơn không chỉ phát triển vào các chiến trường Nam
Bộ và Tây Nguyên mà còn được phát triển mạnh ra phía Bắc, tiếp giáp với hậu
phương lớn miền Bắc, đáp ứng với yêu cầu chi viện ngày càng lớn cho chiến
trường miền Nam.
Tháng
7/1970, Bộ Tư lệnh 559 được đổi tên thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Các binh trạm
được tổ chức thành các sư đoàn; gồm 8 sư đoàn, 1 đoàn chuyên gia (tương đương
sư đoàn), 16 trung đoàn trực thuộc, 6 binh trạm.
Tháng
7/1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn được tổ chức thành: 5 Bộ Tư lệnh khu vực (470,
471, 472, 473, 571), 6 binh trạm trực thuộc (9, 12, 14, 15, 29, 31), 6 trung
đoàn công binh trực thuộc (4, 6, 8, 10, 98, 217), 2 trung đoàn ô tô (11, 13), 3
trung đoàn phòng không (210, 591, 593), 2 trung đoàn đường ống xăng dầu (532,
592), 1 trung đoàn thông tin (gồm 5 tiểu đoàn), 4 quân y viện (Bệnh viện 59,
Viện 46, Viện 47, Viện 48) và các cơ quan trực thuộc (Bộ Tham mưu và 5 cục). Bộ
Quốc phòng cho phép tăng thêm 61 tiểu đoàn, nâng tổng số lên 188 tiểu đoàn và
tương đương trực thuộc các binh trạm; bổ sung 35.000 quân (20.000 bộ đội và
15.000 thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, công nhân giao thông), nâng
tổng quân số lên 92.000 người.
Để
tạo thế bất ngờ với địch, ngày 5/5/1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn huy động toàn bộ
lực lượng công binh và một số lực lượng khác đồng loạt ra quân mở “đường kín”
(là các con đường chạy dưới các tán cây của rừng Trường Sơn). Đến cuối năm
1971, toàn tuyến đã mở được 1.190km đường kín. Vận chuyển trên đường kín đã trở
thành xu thế chủ đạo trên đường Hồ Chí Minh, được Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Trường
Sơn đánh giá rất cao, coi đó là một thành tựu có ý nghĩa chiến lược, tạo được
thế bất ngờ đối với không quân địch. Hệ thống đường kín tiếp tục được phát
triển trong những năm tiếp theo.
Cuối
năm 1972, ta đã xây dựng được một mạng đường giao thông vận tải chiến lược gồm
nhiều trục dọc, ngang và các đường vòng tránh, hình thành hệ thống đường cho
các kiểu, loại xe cơ giới, với tổng chiều dài 11.000km. Giao thông vận tải phục
vụ kháng chiến của toàn miền Nam trong năm 1972 đã góp phần quan trọng tạo nên
chiến thắng to lớn của quân và dân ta trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972,
buộc đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn phải ký Hiệp định Pa-ri, đồng thời cũng
góp phần cho cuộc tiến công chiến lược của quân và dân Lào giành thắng lợi toàn
diện, buộc địch phải ký Hiệp định Viêng Chăn.
Giai đoạn 1973 - 1975: Hoàn thiện thế trận đường Hồ
Chí Minh, cùng cả nước tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975. Đầu năm 1973, mạng đường chiến lược
đã được xây dựng, mở rộng trên địa bàn Tây Trường Sơn, về cơ bản vẫn là tuyến
đường đất, chỉ bảo đảm vận chuyển được trong mùa khô; còn trên địa bàn Đông
Trường Sơn, ta chưa có điều kiện mở đường qua Tây Nguyên. Để đáp ứng yêu cầu
tăng khối lượng vận chuyển, tăng tốc độ xe chạy, tăng mật độ phương tiện nhằm
tổ chức vận chuyển lớn, cơ động lớn và nhanh các binh đoàn chủ lực và binh khí
kỹ thuật đến các hướng tác chiến, ta cần nhanh chóng xây dựng, phát triển, hoàn
thiện mạng đường giao thông vận tải chiến lược Đông, Tây Trường Sơn ra phía
trước.
Để
hoàn thành khối lượng công việc rất lớn được giao, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã tổ
chức điều chỉnh, bố trí lực lượng phù hợp với tình hình; đồng thời được trên tăng cường lực lượng, phương
tiện. Mùa khô 1973 - 1974, lực lượng công binh được triển khai trên toàn tuyến
làm nhiệm vụ xây dựng, khôi phục và bảo đảm đường vận chuyển.
Giữa
năm 1974, Bộ Tư lệnh Trường Sơn có tất cả 8 sư đoàn binh chủng, 20 trung đoàn
và tương đương trực thuộc, hàng chục tiểu đoàn trực thuộc các cục nghiệp vụ;
tổng quân số lên đến 100.495 người, trong đó có 13.155 sĩ quan.
Cuối
năm 1974, tuyến vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh đã thực hiện
được chủ trương của Quân ủy Trung ương, hoạt động cả mùa khô và mùa mưa theo tỷ
lệ thích hợp. Quân và dân ta đã có một hệ thống đường chiến lược nối liền từ
hậu phương lớn miền Bắc với các chiến trường, bảo đảm cho tất cả loại binh khí
kỹ thuật cơ động trong đội hình hành quân của các quân đoàn, binh chủng hợp
thành ra trận.
HC – BTG – theo BTGTW