“Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn và binh biến Đô
Lương, khởi nghĩa Nam Kỳ là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn
quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương”,
đó chính là đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta về của cuộc khởi
nghĩa Nam kỳ vào ngày 23/11/1940, cách đây vừa tròn 79 năm. Ngoài ra, cuộc khởi
nghĩa Nam Kỳ cũng là
những minh chứng thuyết phục cho sự nhạy bén, sáng tạo và đúng đắn trong bước
đầu chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng và là cơ sở quan trọng để Trung
ương Đảng hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tích cực chuẩn bị tiến
tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân trong cả nước vào ngày 02/09/1945.
Kỷ niệm 79 năm ngày khởi nghĩa Nam
kỳ, chúng ta cùng nhìn lại bối cảnh lịch sử, diễn biến, ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm của cuộc khởi nghĩa Nam
kỳ.
(Đêm 22, rạng sáng ngày 23/11/1940, cả Nam Kỳ
rung chuyển dưới sức nổi dậy của quần chúng cách mạng. Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở
20/21 tỉnh, thành phố ở Nam Kỳ, kéo dài từ đêm 22 rạng sáng 23/11 đến ngày
31/12/1940, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long)
1. Bối cảnh lịch sử.
Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế
giới lần thứ II bùng nổ. Ở Ðông Dương, thực dân Pháp phát-xít hóa bộ máy thống
trị, thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân dân ta, chĩa mũi
nhọn vào Ðảng Cộng sản. Sự chà đạp và tước đoạt của thực dân Pháp đối với
Nhân dân ta lên đến cực điểm, cùng mưu mô đầu hàng thỏa hiệp với phát-xít Nhật
đã đặt ra vấn đề sống còn của các dân tộc Ðông Dương. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta
với thực dân Pháp ngày càng gay gắt.
Nhạy bén trước những chuyển biến
của tình hình, Trung ương Đảng đã kịp thời từng bước chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược nhằm tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là phản đế; đồng thời, giải quyết một
phần nhiệm vụ phản phong, chuyển hình thái đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang
đấu tranh vũ trang, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Được trang bị tư tưởng chiến lược
mới, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân
Nam Kỳ nói riêng có sự chuyển biến rõ rệt, ngày càng tích cực, sôi nổi trên tất
cả các mặt trận: tuyên truyền, vận động tổ chức Mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương; nêu cao khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp thống trị, phát xít
Nhật xâm lược; chuẩn bị những điều kiện sẵn sàng thực hiện bạo động cách mạng
giải phóng dân tộc.
Tháng 3/1940, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của đồng chí Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Võ Văn Tần, Thường vụ Xứ ủy đã soạn
thảo Đề cương chuẩn bị báo động. Từ ngày 21 đến ngày
27/7/1940, tại xã Tân Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, Khoáng đại hội nghị
toàn xứ đã được tổ chức, “chủ trương khởi nghĩa vũ trang được quyết định dứt
khoát”.
Tháng 9/1940, tại Hội nghị đại
biểu toàn Xứ tại xã Xuân Thới Đông, huyện Hoóc Môn, tỉnh Gia Định, Xứ ủy đã
quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền địch, giành lấy
chính quyền cách mạng về tay nhân dân. Các tỉnh và thành phố ở Nam Kỳ đều khẩn
trương tiến hành công tác chuẩn bị trong đó có việc thành lập ban khởi nghĩa để
lãnh đạo nhân dân đồng loạt nổi dậy.
Đến giữa tháng 11/1940, trước tình
hình phong trào cách mạng sôi sục, tinh thần phản chiến của binh lính người
Việt trong quân đội Pháp lên cao, Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định phát động toàn Nam
Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 21/11/1940, Thường vụ Xứ ủy ra thông báo cho các cấp bộ đảng nhất loạt
phát động nhân dân nổi dậy vào lúc 0 giờ ngày 23/11/1940.
Tuy nhiên, trước đó từ ngày 6 đến
ngày 9/11/1940, Hội nghị lần thứ Bảy của Ban Chấp hành Trung ương họp tại làng
Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh và
sự tham gia của các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh,
Phan Đăng Lưu... Về đề nghị khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ, Hội nghị quyết định
hoãn việc khởi nghĩa ở Nam Kỳ vì chưa có đủ điều kiện khách quan và chủ quan
đảm bảo cho cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Hội nghị giao đồng chí Phan Đăng Lưu về
truyền đạt chủ trương này cho Xứ ủy Nam Kỳ. Vừa về đến Sài Gòn, trưa ngày
22/11/1940, đồng chí Phan Đăng Lưu bị địch bắt, chưa kịp truyền đạt quyết định
của Trung ương.
2. Diễn biến cuộc khởi nghĩa.
Theo đúng mệnh lệnh của Xứ ủy, 0
giờ ngày 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa đã đồng loạt nổ ra tại hầu hết các tỉnh,
thành phố trong toàn Xứ: Gia Định, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Tân An, Mỹ Tho, Bến
Tre, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Sa Đéc, Biên Hòa, Tây
Ninh, đặc biệt diễn ra rất quyết liệt ở Bà Điểm – Hoóc Môn (Gia Định), Cai Lậy
– Châu Thành (Mỹ Tho), Vũng Liêm – cái Ngang – Tam Bình (Vĩnh Long) và kéo dài
đến ngày 31 tháng 12 năm 1940, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh
Long...
Với khẩu hiệu “Đánh đổ đế quốc
Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn tay sai của đế quốc phản bội dân tộc”, cuộc
khởi nghĩa được đông đảo nhân dân, đặc biệt là nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Lực
lượng vũ trang và Nhân dân đã nổi dậy tiến công địch ở các xã, tập kích nhiều
đồn bốt, tiến đánh một số quận lỵ, phá hỏng nhiều cầu, đường, cắt dây điện
thoại... Ở Vĩnh Long, chính quyền cách mạng cấp quận đã được thành lập tại Vũng
Liêm. Ở Mỹ Tho, chính quyền cách mạng ở vùng khởi nghĩa tồn tại trong 40 ngày.
Một số nơi, Nhân dân lập tòa án cách mạng xét xử bọn phản động, xóa bỏ các thứ
thuế vô lý, xóa các khoản nợ, tịch thu thóc gạo của địch chia cho dân nghèo và
nuôi nghĩa quân
Thực dân Pháp và
các cộng sự người Việt đã đàn áp cuộc khởi nghĩa vô cùng tàn khốc. Họ cho máy
bay dội bom và bắn phá nhiều làng mạc, Hàng nghìn người bị xử tử, bị đày ra Côn Ðảo và các trại
tập trung Bà Rá, Tà Lài... Pháp cũng nhân cơ hội này hành hình nhiều đồng chí
cán bộ chủ chốt của Ðảng bị bắt từ trước khởi nghĩa: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập,
Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Ðăng Lưu...
3. Ý nghĩa lịch sử
Tuy chỉ diễn ra trong một thời
gian ngắn, mặc dù thất bại do điều kiện chưa chín muồi, nhưng cuộc khởi nghĩa
Nam Kỳ có ý nghĩa rất to lớn, cụ thể:
+ Cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sức
mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của Nhân dân các tỉnh Nam Bộ
trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
+ Đó chính là cuộc khởi nghĩa vũ
trang có phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi thực dân Pháp
xâm lược nước ta. Cùng với khởi nghĩa
Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ “là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa
toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Ðông
Dương”.
+ Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã đào tạo và rèn luyện một đội ngũ cán bộ,
đảng viên trung thành với lý tưởng của Ðảng, gương mẫu chiến đấu hy sinh vì độc
lập của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân. Hàng vạn Nhân dân đã được thử thách
trong đấu tranh, để từ đó tiếp tục theo Ðảng thực hiện cuộc vận động giải
phóng dân tộc tiến tới Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
+ Mang tính chất của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tính nhân
dân rộng rãi và sâu sắc, khởi nghĩa Nam Kỳ là minh chứng sinh động cho chủ
trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu của Ðảng được đặt ra từ Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11 năm 1939 với phương pháp đấu tranh “vũ
lực” là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo.
+ Là cơ sở thực tiễn để Hội nghị
lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì diễn ra
5 (năm) tháng sau đó, quyết định “thay đổi chiến lược” đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên trên hết, trước hết cũng như hoàn thiện con đường chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn,
Nam Kỳ, Ðô Lương, Ðảng ta chủ trương phải phát huy tính tích cực, chủ động cách
mạng, phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, để khi thời cơ đến, có
thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương để mở đường
cho cuộc tổng khởi nghĩa.
+ Ðặc biệt, từ trong tiến trình chuẩn bị và
diễn ra khởi nghĩa, lần đầu thiết chế “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”
được đề cập trong truyền đơn rải ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tiêu ngữ
“Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc” được viết trên các băng-rôn treo trước trụ sở
các ủy ban cách mạng ở Long Hưng, ở Vĩnh Kim (Mỹ Tho) và trong bão táp cách
mạng, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu được giương cao trong các cuộc biểu tình, tiến
công đồn bốt ở Mỹ Tho (vùng Long Hưng, Long Ðịnh), Gia Ðịnh (vùng Hóc Môn),
Vĩnh Long (vùng Bà Càng), Cà Mau, Chợ Lớn, Tân An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bến Tre,
Long Xuyên, Thủ Dầu Một... và đã trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết
toàn dân, biểu tượng của tinh thần và ý chí đấu tranh cách mạng của Nhân dân
Nam Kỳ. Ngọn cờ đỏ sao vàng sau đó đã được Ðảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn
làm biểu tượng của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh và đến ngày 09 tháng 11
năm 1946, chính thức là “Cờ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được ghi trong
Hiến pháp, thông qua tại kỳ họp Quốc hội thứ hai (khóa I).
Ghi nhận đối với công lao và sự hy
sinh của quân và dân Nam Kỳ, ngày 14 tháng 01 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra
Sắc lệnh số 163-SL tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất cho Ðội quân
khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940 “đã nổi lên chiến đấu oanh liệt với kẻ địch và đã
biểu dương được ý chí quật cường của dân tộc”.
4. Bài học kinh nghiệm.
Tuy thất bại, nhưng hiện thực hào
hùng của khởi nghĩa Nam Kỳ đã để lại những bài học quý giá. Ðó là bài học về
xây dựng thực lực cách mạng gắn với nắm bắt thời cơ; bài học về khơi dậy và
nhân lên sức mạnh vĩ đại từ sự hiệp lực, đồng tâm của quần chúng; bài học về
phối hợp địa phương với cả nước, về nghệ thuật giành và giữ chính quyền nhân
dân... Ðặc biệt nổi lên bài học về xây dựng Ðảng. Ðảng bộ Nam Kỳ mới 10 tuổi đã
phát động được một cuộc khởi nghĩa long trời lở đất chính vì đã sớm nắm bắt và
vận dụng đường lối của Ðảng, xây dựng được hệ thống tổ chức cơ sở Ðảng, tổ chức
nhân dân rộng khắp, tạo dựng được một đội ngũ cán bộ đảng viên trung thành,
dũng cảm và tiên phong gương mẫu, luôn luôn gắn bó với Nhân dân, tin tưởng ở
sức mạnh của Nhân dân, hòa mình trong Nhân dân mà dẫn dắt Nhân dân tiến lên.
Kỷ niệm 79 năm ngày Nam Kỳ khởi nghĩa, trong lúc
toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta đang thi đua lập thành tích chào mừng Ðại hội đảng bộ các cấp,
tiến tới Đại hội lần
thứ XIII của Ðảng. Bối cảnh lịch sử và những
nhiệm vụ cụ thể trong mỗi thời kỳ khác nhau, song trách nhiệm và sứ mệnh lịch
sử của Ðảng đối với dân tộc không thay đổi. Phát huy tinh thần Khởi nghĩa Nam
Kỳ, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện Long Thành quyết huy động mọi nguồn
lực, quyết tâm hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI
đề ra, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Doãn Thành – BTG