Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn được thể hiện trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử vĩ đại cho cách mạng nước ta, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, tạo ra nhân tố quy tụ được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xuất phát từ tinh thần yêu nước, căm thù ách áp bức, thống trị của thực dân Pháp, nhiều phong trào yêu nước đã xuất hiện với mục tiêu chung là bảo vệ, khôi phục nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chấn hưng đất nước. Các phong trào đấu tranh hoặc theo ý thức hệ phong kiến diễn ra khắp từ Bắc chí Nam; hoặc theo đường lối cải cách, canh tân đưa đất nước phát triển thành một quốc gia phú cường hay theo ý thức hệ dân chủ tư sản của các sĩ phu sĩ yêu nước đều lần lượt bị đàn áp, không đạt được mục đích, cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Yêu cầu đặt ra là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong với đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
Giữa lúc dân tộc ta đang rơi vào bế tắc, nhiều nhà yêu nước tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 05/6//1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm con đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra: chính chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các thuộc địa. Năm 1920, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin; đây không chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã soi rọi cho Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì "Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức quần chúng; ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi". Từ nhận thức đó, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (HVNCMTN) từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lê nin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.
Đầu năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng nước ta, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập (Đông Dương Cộng sản Đảng tại Bắc kỳ (6/1929); An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ (8/1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ (9/1929), điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (ảnh TTXVN)
Trước tình hình đó, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã từ Thái Lan đến Hương Cảng (Trung Quốc) vào cuối năm 1929 để thực hiện sứ mệnh và nhiệm vụ lịch sử trọng đại: thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày 03 đến 07/02/1930, Người đã chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc); tham dự Hội nghị có 02 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, 02 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng.(ngày 24/02/1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời ra quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam). Dưới sự chủ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Lời kêu gọi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và những người cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, đồng bào, đồng chí cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Những văn kiện quan trọng này đều do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản có ý nghĩa như là một đại hội thành lập Đảng, các văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh đã đặt ra và giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp thiết và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự kiện thành lập Đảng được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng quyết định lấy ngày 03/02 dương lịch hàng năm là ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, hội tụ sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tạo tiền đề và nhân tố quyết định đưa cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi rất vẻ vang như: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa đến sự ra đời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội trên tinh thần độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế trong sáng. Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam suốt 95 năm qua đã minh chứng cho tầm vóc bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, củng cố niềm tin sâu sắc của Nhân dân với Đảng trên con đường lãnh đạo xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo Nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.