Chủ tịch Hồ
Chí Minh- Người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam; Người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
kiến trúc sư vĩ đại và linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân
tộc thống nhất. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta những
Di sản vô giá, mà một trong những Di sản đó là tư tưởng của Người - Tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh: Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
sự thành công của cách mạng. Cách mạng muốn thành công, phải có lực lượng đủ
mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng xã hội mới. Việc xây dựng lực lượng
trong nước có ý nghĩa quyết định. Theo Người, muốn có lực lượng đủ mạnh thì
phải thực hành đoàn kết vì “đoàn kết là một lực lượng vô địch”.Người cho rằng:
Cách mạng là công việc chung của toàn dân, chứ không phải là công việc của một
vài người. Cách mạng là một việc khó nhưng biết cách làm, biết đồng tâm, hiệp
lực mà làm thì chắc chắn làm được.
Vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn dân tộc
thành một khối. Đoàn kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế sẽ tạo ra sức
mạnh to lớn để chiến thắng mọi kẻ thù. Người viết:“Nhờ đại đoàn kết dân tộc mà
trong bao thế kỷ nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự do của mình. Nhờ
đại đoàn kết mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm cách
mạng Tháng Tám thành công và đã kháng chiến thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn
dân mà nước Việt Nam chúng ta nhất định sẽ thống nhất”.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng
đầu của cách mạng, được xây dựng trên cơ sở lấy lợi ích tối cao của đất nước và
quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng; kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể, lợi ích gia đình với lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp
với lợi ích dân tộc.
Lợi ích tối
cao của dân tộc là độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ,
là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một mục tiêu, một
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Đây là nguyên tắc “bất biến” trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Lấy cái “bất biến”, cái thống nhất, cái chung, cái ổn định
đó làm điểm tương đồng mà điều hòa, giải quyết các vạn biến, tức cái khác biệt
về lợi ích, về ý kiến, về thị hiếu, về thành phần xã hội vốn có trong nhân dân,
trong mọi xã hội. Những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động được thể hiện cụ
thể trong từng giai đoạn cách mạng. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải xử lý đúng mối hệ cốt lõi giữa giai cấp và
dân tộc.
Theo Người:
“Dân tộc không độc lập thì giai cấp vạn năm không được giải phóng và nhân dân
ta mãi mãi phải chịu kiếp ngựa trâu”. Và “Nhưng nếu nước ta được độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì”, “Dân
chỉ biết giá trị của tự do, của độc lập khi dân được ăn no, mặc đủ”.
Trong mối quan hệ đó, vai trò lãnh đạo và lợi ích của giai cấp công nhân chỉ có
thể được đảm bảo khi giai cấp công nhân trở thành trung tâm liên kết các giai
cấp và đại diện cho lợi ích chung nhất của các giai cấp, tức giai cấp công nhân
phải trở thành dân tộc, phải giương cao ngọn cờ dân tộc.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn
dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người đã kết hợp nhuần nhuyễn luận
điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” với tư
tưởng truyền thống của tổ tiên “Nước lấy dân làm gốc”. Dân theo tư tưởng của
Người bao gồm: “mọi con dân nước Việt”, “con cháu Lạc Hồng” không phân biệt
thiểu số, đa số, người có tín ngưỡng và người không tín ngưỡng, không phân biệt
già, trẻ, gái, trai, không phân biệt giàu nghèo."Đồng bào Kinh hay Thổ,
Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số
khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có
nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”. Đó là một đoạn trích trong Thư
của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plâyku,
thể hiện quan điểm, tư tưởng của Bác đối với vấn đề đại đoàn kết dân tộc trong
công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và kiến thiết nước nhà.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào các dân tộc thiểu số ở
miền Nam đã đứng lên kháng chiến, chống thực dân Pháp xâm lược. Trải qua nhiều
khó khăn, gian khổ, thiếu thốn và hy sinh, nhưng tinh thần chiến đấu quả cảm,
anh dũng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở mọi vùng miền của Tổ quốc đã góp
phần quan trọng cùng với quân và dân cả nước làm nên thắng lợi vĩ đại trong các
cuộc chiến tranh giải phóng, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Quán triệt chủ trương, chính sách đại
đoàn kết của Đảng, Nhà nước và lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ quân đội không
phân biệt người kinh, người dân tộc thiểu số, thành phần xuất thân, nơi sinh
sống, luôn nêu cao tình đồng chí, nghĩa đồng đội, đoàn kết với nhau như ruột
thịt với tinh thần toàn quân một ý chí. Kiên quyết đấu tranh, vạch trần mọi âm
mưu, thủ đoạn kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam của
các thế lực thù địch.
NH-VH&TT -Tổng
hợp ( Nguồn: trang Hồ Chí Minh- Đẹp
nhất tên người)