Trong lịch sử Việt Nam, từ năm 1930 đến nay, không có thời kỳ nào vắng
bóng tổ chức Mặt trận. Lịch sử Cách mạng Việt Nam đã khẳng định Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam là vũ khí chính trị không thể thiếu được để nhân dân ta
phát huy sức mạnh tổng hợp của mình trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
giành độc lập tự do và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Cách đây 89 năm, giữa lúc cao trào cách mạng
đầu tiên mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh đang diễn ra rầm rộ ngày 18/11/1930,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị thành lập Hội phản
đế đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam. Mặt
trận nhằm đoàn kết các đảng phái, giai cấp, nhân sĩ trí thức Việt Nam và nòng cốt
là liên minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh chống đế quốc,
xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
Hội nghị Trung ương Đảng (11/1936) quyết định
thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương, đến tháng 3/1938 đổi
tên thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận dân chủ
Đông Dương).
Ngày 19/5/1941, theo sáng kiến của đồng
chí Hồ Chí Minh, Việt Namđộc lập đồng minh hội (gọi tắt là Mặt trận Việt
Minh) thành lập tại Pắc Pó (Cao Bằng). Đây là thời kỳ chính sách Mặt trận được
đề ra cụ thể, được áp dụng sinh động và các kinh nghiệm phong phú nhất. Nhờ
chính sách Mặt trận đúng đắn, phong trào lan rộng, cơ sở Mặt trận phát triển rộng
rãi, khi thời cơ đến, Việt Minh đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về
tay nhân dân.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, theo
sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5/1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt
Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt) được thành lập, thu hút thêm một số nhân sĩ, địa
chủ yêu nước.
Đến 3/3/1951, Đại hội thống nhất Việt Minh
– Liên Việt lấy tên là Mặt trận Liên Việt.
Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng
(1951) đã khẳng định: “Mặt trận là một trong những trụ cột của Nhà nước dân chủ
nhân dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng chiến và kiến quốc, là cơ sở quần
chúng rộng rãi, làm thành áo giáp vững bền của Đảng”.
Sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954), ngày
10/9/1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất đã quyết định thành lập Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã thông qua cương lĩnh Mặt trận, chính sách đại
đoàn kết toàn dân, vai trò và nhiệm vụ của Mặt trận đối với cách mạng nước ta
trong giai đoạn mới.
Đánh giá về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại
hội lần thứ III của Đảng đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết
các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và
tán thành chủ nghĩa xã hội, nhờ đó đã động viên mọi lực lượng yêu nước và tiến
bộ của dân tộc để xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước
nhà”.
Ở miền Nam, ngày 20/12/1960, Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời đã kịp thời đề ra nhiều chủ trương
chính sách nhằm đoàn kết toàn dân chống đế quốc Mỹ và bè lũ độc tài tay sai.
Ngày 20/1/1968, Liên minh các lực lượng
dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam được thành lập nhằm đoàn kết và
tranh thủ một số người ở thành thị, mở rộng thêm một bước Mặt trận chống Mỹ cứu
nước.
Sau khi thống nhất nước nhà, ngày
31/1/1977, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất quyết định thống nhất ba tổ chức
Mặt trận, lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông qua chương trình hoạt động
và Điều lệ mới nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân để cùng nhau phấn đấu
xây dựng Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, XHCN và tích cực góp
phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Trong thời kỳ phát triển mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Mặt trận tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy cao
độ nhân tài, vật lực của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân trong nước
và người Việt Nam ở nước ngoài, đồng tâm nhất trí đưa đất nước phát triển với tốc
độ cao hơn, hiệu quả kinh tế xã hội lớn hơn, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo vệ vững chắc độc lập của Tổ quốc, đưa đất
nước hội nhập với tiến trình phát triển của thế giới.
HC
- BTGHU tổng hợp